Kỳ tài trong lịch sử Việt Nam

Thảo luận trong 'Cờ Vây Phúc Đức' bắt đầu bởi PhucDuc.vn, 3/3/17.

  1. PhucDuc.vn

    PhucDuc.vn Administrator Thành viên BQT

    Kỳ tài trong lịch sử Việt Nam

    [​IMG]

    Đây là những vị trạng nguyên, bậc kỳ tài trong lịch sử dân tộc, xứng đáng là tấm gương và niềm tự hào của giới trẻ Việt

    Từ ngàn đời nay, hiếu học đã trở thành một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam

    Ông cha ta từ xưa dù có nghèo đến mấy cũng cố gắng để cho con đi học lấy cái chữ để thành người và cũng có biết bao nhiêu tấm gương vượt nghèo, vượt khó vươn lên trong học tập

    Và để rồi, họ trở thành những vị trạng nguyên xuất sắc nhất trong lịch sử Việt Nam

    1. Nguyễn Quan Quang - Trạng nguyên đầu tiên

    Từng có ý kiến cho rằng Nguyễn Hiền là vị trạng nguyên đầu tiên của nước ta. Nhưng điều này không chính xác !

    Đúng là năm 1247 mới có danh vị trạng nguyên và Nguyễn Hiền là trạng nguyên khoa thi năm này. Nhưng lịch sử khoa bảng lại tính Nguyễn Quan Quang là vị trạng nguyên đầu tiên. Là bởi vì Nguyễn Quan Quang đỗ đầu khoa thi trước đó chỉ 1 năm (năm 1246)

    Trạng nguyên Nguyễn Quan Quang - người Tam Sơn, huyện Từ Sơn, đỗ Trạng năm 1246

    [​IMG]

    Sinh ra trong một nhà nông nghèo, không đủ gạo tiền để theo học, nhưng với bản tính vốn ham học hỏi, Nguyễn Quan Quang thường lân la ngoài cửa lớp nghe thầy dạy bọn học trò trong làng học sách Tam tự kinh

    Vì chẳng có giấy bút đi học, lại chỉ dám nghe lỏm ngoài cửa nên cậu bé Nguyễn Quan Quang khi đó đã dùng gạch non để viết lên sân

    Nét chữ của cậu rất đẹp nên một ngày, thầy giáo vô tình nhìn thấy và đã phải thốt lên “Đây mới chính là trò giỏi”. Nói rồi, thầy cho gọi Quan Quang vào lớp và thu nhận làm học trò của thầy

    Nguyễn Quan Quang nổi tiếng thông minh học một biết mười. Ông dự kỳ thi Hương, đỗ luôn giải Nguyên. Đến kỳ thi Hội lại đỗ luôn Hội nguyên. Khi vua Trần Thái Tông mở khoa thi Đại tỉ Thủ sĩ, ông trở thành Trạng nguyên

    2. Nguyễn Hiền – Trạng nguyên nhỏ tuổi nhất

    [​IMG]

    Trạng nguyên Nguyễn Hiền quê ở Nam Định. Ông cũng là người có hoàn cảnh đặc biệt: cha mất sớm, sống với mẹ trong căn nhà nhỏ bên cạnh một ngôi chùa

    Vị sư trụ trì của chùa vốn là một danh Nho, vừa tụng kinh niệm phật vừa dạy học cho những trẻ chưa biết chữ trong làng

    Ngay từ thời thơ ấu, Nguyễn Hiền đã lân la ở bên các lớp học, sớm tiếp xúc với chữ nghĩa sách vở

    Năng khiếu kỳ lạ về học tập, về trí thông minh của ông đã nhanh chóng được bộc lộ: dù chưa đến tuổi đi học, Nguyễn Hiền đã hiểu biết nhiều, giỏi đối đáp, học thức hơn người… Ông được suy tôn làm “Thần đồng xuất chúng”

    Năm 1247, khi vừa tròn 12 tuổi (tính theo tuổi ta là 13), Nguyễn Hiền đã thi đậu Trạng Nguyên, trở thành vị Trạng Nguyên trẻ nhất trong lịch sử Việt Nam

    3. Mạc Đĩnh Chi - Lưỡng quốc Trạng nguyên

    [​IMG]

    Mạc Đĩnh Chi không chit là trạng nguyên của Đại Việt mà còn được phong làm "Lưỡng quốc Trạng nguyên" (Trung Hoa và Đại Việt) khi sang sứ Trung Hoa thời nhà Nguyên

    Ông là người Hải Dương. Từ nhỏ đã mồ côi cha, nhà nghèo, hai mẹ con phải đi vào rừng sâu hái củi để kiếm sống hàng ngày. Mẹ ông chịu thương chịu khó dành dụm tiền mong con đi học lấy cái chữ. Hiểu được lòng mẹ, Mạc Đĩnh Chi càng ra sức học tập

    Ông chăm chỉ đọc sách, nghiền ngẫm nội dung, kể cả những lúc gánh củi đi bán. Không có sách học, thì mượn thầy mượn bạn. Không có tiền mua nến để đọc sách, thì Mạc Đĩnh Chi đốt củi, hết củi thỉ lấy lá rừng đốt lên để học

    Với nghị lực phi thường như vậy, chẳng bao lâu Mạc Đĩnh Chi đã nổi tiếng là thần đồng nho học. Khoa thi Giáp Thìn (1304), thi hội, Mạc Đĩnh Chi đỗ Hội nguyên, thi Đình, ông đỗ Trạng nguyên

    4. Lương Thế Vinh - Trạng Lường

    [​IMG]

    Lương Thế Vinh là người Nam Định. Từ nhỏ ông đã nổi tiếng về khả năng học mau thuộc, nhanh hiểu, và khả năng sáng tạo trong các trò chơi như đá bóng, thả diều, câu cá, bẫy chim

    Chưa đầy 20 tuổi, tài học của Lương Thế Vinh đã nổi tiếng khắp vùng. Năm 23 tuổi, đời vua Lê Thánh Tông năm 1463, Lương Thế Vinh đỗ trạng nguyên khoa Quý Mùi

    Sau đó, ông làm quan 32 năm với biệt tài về ngoại giao, được nhà vua tin yêu, giao trọng trách soạn thảo văn từ bang giao và đón tiếp sứ thần nước ngoài

    Không những thế, ông hiểu biết sâu rộng, trở thành một nhà bác học khá toàn diện

    Ông dạy cho người đương thời từ phép cửu chương (tính nhân) tiến lên phép bình phương, cách đo bóng (đo bóng cây tính chiều cao của cây), hệ thống đo lượng đương thời (tiền, vải, thóc, gạo ...), toán đạc điền (đo đạc diện tích ruộng đất)...

    Nhà bác học Lê Quý Đôn (thế kỷ XVIII) đã hết lời ca ngợi Lương Thế Vinh, đánh giá ông là con người có tài kinh bang tế thế, một con người “tài hoa danh vọng vượt bậc”

    5. Nguyễn Thị Duệ - Nữ trạng nguyên duy nhất khoa cử phong kiến Việt Nam

    [​IMG]
    Văn miếu Mao Điền, nơi thờ bà chúa Sao Nguyễn Thị Duệ

    Bà Nguyễn Thị Duệ quê ở Hải Dương, sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo, có truyền thống hiếu học. Vốn là người thông minh, có nhan sắc nên mới hơn 10 tuổi, bà đã được nhiều nhà quyền quí đến xin hỏi cưới, nhưng bà không thuận

    Bà đã phải giả trai để đèn sách đi thi đỗ thủ khoa, trong khi chính thầy dạy chỉ đỗ á khoa. Và bà trở thành nữ tiến sĩ đầu tiên và duy nhất của khoa cử phong kiến Việt Nam khi mới 20 tuổi

    Trong ngày mở tiệc đãi các tân khoa, bà bị phát hiện là giả trai. Tuy nhiên, không những không bị kết tội mà còn được nhà vua hết mực khen ngợi

    Tạm kết

    Lích sử Việt Nam vẫn còn nhiều hơn thế những vị trạng nguyên lỗi lạc. Nhưng trên đây là những nhân tài tiêu biểu nhất mà tên của họ sẽ mãi mãi không phai mờ theo năm tháng

    Ở họ không chỉ là sự thông minh, mà còn là ý chí, nghị lực vô cùng lớn lao để vượt qua những gian nan, thử thách. Họ chính la fnhững tấm gương sáng cho con cháu đời đời noi theo

    Trí Thức Trẻ
     
  2. PhucDuc.vn

    PhucDuc.vn Administrator Thành viên BQT

    3 bậc kỳ tài trong lịch sử Việt Nam khiến cả Trung Quốc chấn động

    Trong lịch sử, Việt Nam từng có nhiều anh tài khiến Trung Quốc phải ngả mũ thán phục

    Lý Ông Trọng - Vị Tướng khiến Tần Thủy Hoàng nể phục

    Lý Ông Trọng tên thật là Lý Thân, là một nhân vật sống vào cuối đời Hùng Duệ Vương, đầu thời An Dương Vương, gốc làng Chèm (Bắc Từ Liêm, Hà Nội)

    Vào thời Hùng Vương thứ 18, Ông Trọng giữ một chức nhỏ ở huyện ấp, đời sau truyền rằng ông cao hai trượng ba thước. Với bản tính cương trực, trung hậu, thương dân nên có lần thấy một tên lính huyện ác ôn đánh đập dân phu dã man, ông đã nổi giận đánh chết tên lính đó và bị triều đình khép tội chết. Nhưng vua thấy ông là người có tài đức, khỏe mạnh nên không nỡ giết. Sau đó ông bỏ chức, đi cầu học phương xa

    Đến thời Thục An Dương Vương, ông là một tướng giỏi giúp vua và được cử đi sứ nước Tần

    [​IMG]

    Bấy giờ nhà Tần hay có nạn giặc Hung Nô đánh phá phía Bắc. Tuy Tần Thủy Hoàng đã cho đắp Vạn Lý Trường Thành nhưng vẫn không yên. Nhân có tướng tài của nước Âu Lạc là Lý Ông Trọng sang sứ nên vua Tần ngỏ ý mời ông giúp Tần trừ giặc Hung Nô, phong ông làm Vạn Tín Hầu. Ông Trọng cầm quân ra giữ đất Lâm Thao (vùng Cam Túc, Trung Quốc hiện nay), hễ quân Hung Nô kéo đến bao nhiêu là bị đập tan bấy nhiêu. Giặc Hung Nô kinh sợ và từ đó không dám xâm phạm biên ải nhà Tần nữa. Vua Tần hết sức khâm phục, phong tước cao, thưởng hậu và gả cả công chúa cho Lý Ông Trọng, muốn lưu ông ở lại Tần lâu dài. Sau đó một thời gian, Lý Ông Trọng nhớ quê hương xin vua Tần cho về nước nghỉ ngơi

    Khi biết tin Lý Ông Trọng đã về nước, quân Hung Nô lại kéo sang đánh Tần. Vua Tần lại sai sứ sang Âu Lạc mời Ông Trọng. Ông Trọng không muốn đi nên vua Thục nói rằng ông đã mất. Vua Tần bất đắc dĩ phải đúc một pho tượng đồng khổng lồ hình Lý Ông Trọng (bên trong rỗng, chứa được mấy chục người, có máy giật để cử động chân tay như thật) đặt ở cửa Kim Mã, kinh thành Hàm Dương. Giặc Hung Nô ngỡ là ông lại sang Tần nên không dám xâm phạm nước này. Từ đó người phương Bắc thường gọi những pho tượng lớn là “Ông Trọng”

    Hồ Nguyên Trừng - Ông Tổ súng thần công

    Hồ Nguyên Trừng là con trai cả của Hồ Quý Ly. Năm 1407, nước Đại Ngu mới hình thành đã đứng trước nguy cơ xâm lược rõ ràng của nhà Minh, Hồ Nguyên Trừng đã gấp rút cho thành lập các tổ đúc súng đạn, chế ra các loại súng trang bị cho quân đội, trong trường hợp cần ngênh chiến với quân Minh

    Dựa trên những hiểu biết về thuốc súng và các phương pháp đúc súng cổ truyền, Hồ Nguyên Trừng đã phát huy trí sáng tạo của một kĩ sư quân sự để tạo ra một loại vũ khí mới có sức công phá cao chưa từng thấy thời bấy giờ, lấy tên là súng Thần cơ sang pháo. Về kết cấu, loại vũ khí này được cho là tiền thân của các loại súng thần công hiện nay, hay cũng chính là khẩu đại bác đầu tiên được chế tạo

    [​IMG]

    Tài năng của Hồ Nguyên Trừng đã phát huy ngay từ khi ông là tướng trong triều của vua Hồ Quý Ly. Không chỉ đúc súng, ông còn là tác giả của chiến thuyền cổ lâu, của thế trận độc đáo chống giặc Minh và của nhiều các công trình trị thủy khác. Tài năng của ông lại một lần nữa được khẳng định khi nó đã cứu ông thoát khỏi cái chết. Nhà Minh sau khi đưa ba cha con Hồ Quý Ly về nước, đã tha tội cho Hồ Nguyên Trừng và giao cho ông một chức quan trong triều đình. Điều mà nhà Minh mong muốn chính là dùng tính mạng của cha và em trai ông để có được tài nghệ đúc súng thần cơ của ông. Khi ấy, để làm trọn đạo nghĩa với cha và em trai, Hồ Nguyên Trừng đã chấp nhận làm quan dưới Triều Minh và ông được sử sách nhà Minh lưu lại dưới cái tên Lê Trừng

    Nguyễn An - Kiến trúc sư tử cấm thành

    Nguyễn An (1381-1453), sinh ra ở Hà Đông, nay thuộc ngoại thành Hà Nội. Tài năng của Nguyễn An đã phát tiết khi ông còn rất trẻ

    Năm 16 tuổi, Nguyễn An bắt đầu tham gia vào hiệp thợ xây dựng cung điện nhà Trần để phát huy tài năng tính toán và biệt tài kiến trúc hiếm có của mình. Nguyễn An đã bị nhà Minh bắt làm tù binh cùng với rất nhiều những nhân tài khác của nước Việt. Trớ trêu hơn nữa, ông bị hoạn và trở thành thái giám phục vụ trong Cung. Vua Minh lúc bấy giờ đang ấp ủ kế hoạch xây dựng lại cung điện của triều đình tại kinh đô mới ở Bắc Bình (nay là Bắc Kinh). Minh Thành Tổ đã nhìn thấy tài năng kiến trúc của Nguyễn An, lại thêm phần mến phục đức độ liêm khiết, chính trực của ông, đã trao cho ông trọng trách làm “Tổng đốc công” chỉ huy công trường xây dựng Tử Cấm Thành

    Ở cương vị ấy Nguyễn An đã phát huy hết được những sở trường của ông, trong cả lĩnh vực thiết kế và lĩnh vực quản lý, quy hoạch. Ông tham gia tính toán, sắp đặt trong tất cả các khâu từ tuyển chọn, chuẩn bị vật liệu cho tới đào tạo thợ, thiết kế, chỉ huy công trình xây dựng. Hãy cùng đọc một nhận xét của Dương Sĩ Kì trong “Kinh Thành Ký Thắng” về của Nguyễn An: “Nguyễn An tự tay vạch kiểu, thành hình là lập được thế, mắt ngắm là nghĩ ra cách làm, tất cả đều đúng với quy chế. Bộ công và các thợ thuyền đành chịu khoanh tay, bái phục, nghe ông chỉ bảo, sai khiến, thật là người đại tài, xuất chúng”. Trong rất nhiều các sách sử khác của Trung Hoa, nhất là của Triều Minh, Nguyễn An vẫn được nhắc đến như một bậc kì nhân

    Lý Ông Trọng
     

Chia sẻ trang này