ThinkTank giáo dục

Thảo luận trong 'Y Tế Số EHC' bắt đầu bởi PhucDuc.vn, 23/2/18.

  1. PhucDuc.vn

    PhucDuc.vn Administrator Thành viên BQT

    Giáo dục Việt Nam thời đại 4.0
    Yếu tố nội tại và nội lực riêng biệt, những cơ hội và thách thức với giáo dục Việt Nam trong cuộc cách mạng 4.0 là suy tư của GS.TS Trương Nguyện Thành trong những ngày đầu năm

    Viễn cảnh xã hội trong thời đại 4.0 với những trải nghiệm ưu việt từ trí tuệ nhân tạo và sự tích hợp đa công nghệ rõ ràng là lời mời gọi hấp dẫn từ tương lai

    Nhưng cũng có cảnh báo nhắc bên tai hàng ngày về nguy cơ tụt hậu. Giáo dục ngay lập tức được giao trọng trách đào tạo nhân lực bắt kịp xu thế và lĩnh hội tinh hoa của cuộc cách mạng thời đại

    Bài mẫu chỉ để lập trình robot


    Theo Diễn Đàn Kinh tế Thế giới (WEF), đến năm 2020, nhiều công việc trong thị trường lao động trên toàn cầu sẽ biến mất. Thay vào đó, những công việc bây giờ chưa có sẽ hình thành và đòi hỏi kỹ năng mới

    Trí tuệ nhân tạo đang thâm nhập trực tiếp vào đời sống của chúng ta, từ người máy làm bồi bàn ở quán cà phê, việc nhà rồi xe hơi tự lái, qua những dây chuyền lắp ráp quy mô với độ chính xác cao, đến những công việc suy nghĩ đơn giản của kế toán và bác sĩ... Tất cả đều có thể được lập trình, tự động hóa. Nó mang lại năng suất cao hơn so với sức lao động của con người rất nhiều

    [​IMG]
    Giáo dục Việt Nam đứng trước nhiều cơ hội lẫn thách thức trong cuộc cách mạng 4.0

    Cũng theo WEF, đến năm 2020, chúng ta sẽ làm những việc mà công nghệ với trí tuệ nhân tạo tại thời điểm đó chưa có khả năng xử lý. Đó là những công việc đòi hỏi phải xử lý những vấn đề phức tạp, cần giải pháp đa chiều, linh động theo từng sự việc, hoàn cảnh, mà trí tuệ nhân tạo không thể có lập trình mà xử lý rốt ráo được

    Trong khi đó, giáo dục phổ thông của Việt Nam hiện nay vẫn còn loay hoay với những bài mẫu, văn mẫu, phương pháp giải toán, lý, hóa mẫu... Việc sử dụng bài mẫu giúp học sinh nhận dạng vấn đề mau chóng và dùng phương pháp mẫu đã học để giải quyết khi gặp vấn đề y như mẫu, như các quy trình ta dùng để lập trình cho người máy

    Cách học theo bài mẫu sẽ làm học sinh không thể phát huy tư duy phán xét và tính sáng tạo để giải quyết vấn đề. Một khi gặp phải vấn đề phức tạp chưa có đáp án, học sinh thiếu kỹ năng phân tích để đưa ra những giải pháp hợp lý. Đây là lý do cho sự khác biệt lớn giữa học đường với môi trường làm việc thực tế, góp phần cho con số trên 200.000 sinh viên ra trường không có việc làm

    Thị trường lao động được chia thành bốn phân khúc: Lao động chân tay, công nghệ cấp thấp, công nghệ cấp trung và công nghệ cấp cao. Thông thường, khi kinh tế phát triển, nhân lực ở phân khúc thấp sẽ chuyển lên phân khúc cao hơn và do đó thu nhập bình quân đầu người cũng tăng theo

    Từ đánh giá của tổ chức OCED và World Bank về Việt Nam năm 2014, phân bổ tỷ lệ lao động trong các phân khúc ở Việt Nam hầu như không thay đổi từ năm 2000

    So với Trung Quốc, đầu năm 2000, thị trường lao động giống như Việt Nam, đa số ở phân khúc lao động công nghệ cấp thấp. Nhưng đến sau 2010, Trung Quốc đã dời một số lớn lực lượng lao động từ phân khúc công nghệ thấp qua phân khúc công nghệ trung và cao. Trong khi đó, phân bổ thị trường lao động Việt Nam hầu như bị khóa

    Lời giải cho thị trường lao động 4.0


    Với cách mạng công nghệ 4.0, người máy và dây chuyền tự động hóa sẽ chiếm phần lớn những công việc tay chân và công nghệ cấp thấp. Số lượng người lao động này sẽ đi đâu và làm gì ? Làm sao di dời nguồn nhân lực trong phân khúc lao động tay chân và công nghệ thấp lên các tầng cao hơn mà không rơi vào trạng thái bị động trước các thử thách do cách mạng công nghệ 4.0 đem lại ?

    Giáo dục có thể giải bài toán hóc búa này từ góc độ vĩ mô bằng cách tạo điều kiện cho mọi người dân không phân biệt tuổi tác, trình độ, hay khó khăn cá nhân được đào tạo để nâng cao kiến thức và cơ hội làm việc ở phân khúc cao hơn

    Chúng ta cần hoàn thiện hóa hệ thống giáo dục hiện tại, mở thêm hệ thống giáo dục trực tuyến miễn phí từ cấp mẫu giáo đến hết trung học phổ thông cho dân. Tạo cơ hội cho mọi người, không phân biệt tuổi tác, cùng có cơ hội đến trường, xây dựng những lộ trình để mỗi người, tùy theo sở thích và năng lực, có thể theo đuổi ngành nghề phù hợp với khả năng và hoàn cảnh của mình

    Hệ thống giáo dục trực tuyến này sẽ giúp giảm áp lực lên hạ tầng cơ sở đang bị quá tải của hệ thống giáo dục phổ thông, nhất là ở những thành phố lớn, mở ra cơ hội công bằng cho đồng bào ở vùng sâu vùng xa

    Để chuẩn bị nguồn nhân lực cho công nghệ 4.0, giáo dục Việt Nam từ mẫu giáo đến đại học cần từ bỏ lối dạy - học từ chương, từ bỏ việc đòi hỏi học sinh phải thuộc lòng công thức, định nghĩa, thông tin, trả bài theo những giải pháp mẫu

    Chúng ta cần chuyển qua phương pháp học để giải quyết vấn đề (problem-based learning). Phương pháp này tạo điều kiện để học sinh quen với cách phân tích sự việc, nhận định vấn đề, nhìn sự việc từ nhiều góc độ, đánh giá hậu quả, bảo vệ quan điểm, sáng tạo trong cách xử lý, thiết lập quan hệ tốt với bạn học, và đạt kết quả hữu hiệu nhất

    Phương pháp đào tạo này giúp học sinh dễ dàng áp dụng kiến thức học hỏi vào đời sống thực tế, có khả năng xử lý những vấn đề phức tạp mà trí tuệ nhân tạo không thay thế được. Có như thế, chúng ta sẽ dễ dàng vượt qua sự đào thải của cách mạng công nghệ 4.0

    Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung đang đứng trước nhiều thử thách. Trong cuộc đua toàn cầu này, quốc gia nào không theo kịp sẽ trở thành tụt hậu

    Tỷ lệ dân số ở tuổi lao động của Việt Nam là tỷ lệ vàng. Để phát huy tối đa nguồn năng lực này, chúng ta cần một chiến lược lâu dài, với giáo dục làm then chốt, uyển chuyển và bén nhạy, từng bước triển khai; chú trọng việc đào tạo nhân lực các cấp, đáp ứng theo nhịp cung cầu của thị trường lao động

    GS.TS Trương Nguyện Thành là nhà khoa học thành danh ở Mỹ với nhiều công trình nghiên cứu và hàng trăm bài viết được đăng trên các tạp chí khoa học quốc tế

    Năm 1985, ông tốt nghiệp ĐH North Dakota loại giỏi. Ngoài bằng Hóa học, ông còn lấy bốn bằng phụ về Lý, Toán, Kế toán và Công nghệ Thông tin

    Năm 1990, ông có bằng tiến sĩ, giành được giải thưởng của Hội đồng Khoa học Quốc gia Mỹ, sau đó nghiên cứu sau tiến sĩ ngành Mô phỏng Cơ cấu Sinh lý

    Năm 1992, ĐH Utah mời ông về giảng dạy môn Hóa lượng tử. Năm 1993, GS Thành đoạt giải một trong những nhà khoa học trẻ tuổi có nhiều triển vọng của Mỹ. Cuối năm 2016, ông nhận lời mời của Hội đồng Quản trị ĐH Hoa Sen, về công tác tại trường


    Trương Nguyện Thành
     
  2. PhucDuc.vn

    PhucDuc.vn Administrator Thành viên BQT

    Mô hình thinktank giáo dục đại học
    Xuất phát từ tư tưởng triết học “tự do và trách nhiệm” làm nên tự trị đại học, bài viết phân tích mô hình tự trị đại học phương Tây và tham chiếu với giáo dục đại học Việt Nam, nêu lên những thay đổi của trường đại học hôm nay như là chỉ dấu cho yêu cầu cần một cuộc cải tổ đại học lần nữa

    Tự trị đại học

    Những tư tưởng về tự trị và điều kiện để tự trị đã ảnh hưởng đến lĩnh vực giáo dục đại học. Đó chính là sự hình thành mô hình tự trị đại học (university autonomy), mà ở Việt Nam thường gọi là tự chủ đại học

    Tự trị đại học là quyền của trường đại học trong việc quyết định sứ mệnh và chương trình hoạt động của mình cũng như cách thức thực hiện sứ mệnh và chương trình hoạt động đó

    Nội dung tự trị đại học bao hàm quyền tự trị của các trường đại học trên ba lĩnh vực cơ bản là học thuật, quản trị và tài chính

    Tự trị đại học đóng vai trò là điều kiện tiên quyết cho việc hình thành một nền đại học mạnh, thực hiện sứ mệnh cao cả của mình là những think tank mở đường cho sự cải cách và phát triển xã hội

    Phương Tây ngay từ thế kỷ 13, 14 đã xuất hiện tư tưởng về tự trị đại học. Hiến chương thành lập Đại học Vienna năm 1365 đã đưa ra tư tưởng về “universitas” (đại học) với hai bộ phận:

    1. Tính phổ quát: nghiên cứu và giảng dạy tri thức trong tính phổ quát của nó

    2. Tính tự do: hình thành một cộng đồng khoa học thầy – trò mà trong đó tôn trọng tự do đối thoại

    Theo Kant (Immanuel Kant (1724-1804), nhà triết học Đức), nhiệm vụ của trường đại học là đào tạo những chủ thể cộng hoà: những người có khả năng sử dụng lý trí một cách tự do, đồng thời có tinh thần công dân trong quan hệ với nhà nước. Chính những người này, trong khi làm tốt nghĩa vụ của mình, thông qua tự do tư tưởng, đem đến những điều chỉnh tiến bộ cho xã hội. Mô hình ấy của Kant đã góp phần giải quyết được hai mục tiêu của trường đại học: vừa đáp ứng yêu cầu của nhà nước, vừa khai phóng tư tưởng

    Mở đầu cho tự trị đại học chính là mô hình đại học của Humboldt, sau này đã trở thành phong trào trong các trường đại học hiện đại ở phương Tây

    “Lý tưởng đại học” Humboldt (Wilhelm von Humboldt (1767-1835) nhà giáo dục,nhà ngôn ngữ học người Đức, người sáng lập ĐH Humboldt tại Berlin) là sự kết hợp của ba yếu tố: tư tưởng đại học thời trung cổ, tư tưởng dân chủ xã hội thời Khai sáng, yêu cầu của xã hội hiện đại; từ đó đưa ra hai tư tưởng chủ đạo và hai điều kiện cần

    Hai tư tưởng chủ đạo: cá nhân tự trị và tinh thần công dân thế giới

    - Cá nhân tự trị: trường đại học phải là nơi đào tạo ra những cá nhân tự trị–những người biết tự quyết và biết sử dụng lý trí của mình trên cơ sở tri thức phổ quát và toàn diện mà linh hồn của nó là tư tưởng nhân bản; để những tri thức ấy thực sự là tinh túy thì chúng phải được tiếp tục nghiên cứu, xem xét và phê phán; để tinh thần phê phán được duy trì hiệu quả thì cần có sự tự trị

    - Tinh thần công dân thế giới: trường đại học phải là nơi tạo ra mối dây liên kết những cá nhân tự trị, độc lập với nguồn gốc và trình độ văn hoá, kinh nghiệm xã hội, biết quan tâm đến những vấn đề toàn nhân loại như nỗ lực cho hoà bình và công lý, sự đối thoại văn hoá đa dạng, sự bình đẳng giới và bảo vệ môi trường; văn hóa là sợi dây liên kết giữa quá khứ, hiện tại và tương lai, làm nên bản sắc của một quốc gia và đưa con người tới tự do

    Hai điều kiện cần: tự do học thuật và kết hợp nghiên cứu với giảng dạy

    - Tự do học thuật: tự do học thuật, tự do khoa học là sự phát triển tự thân và loại trừ mọi sự can thiệp từ bên ngoài, từ đó mới có điều kiện đưa ra những giả thuyết khác nhau với tư cách là tiền đề sản sinh tri thức mới;sự tự do này biểu hiện ở sự độc lập về kinh tế, quản trị, giảng dạy và nghiên cứu

    - Kết hợp nghiên cứu với giảng dạy: hướng đến sự thống nhất của tri thức và thực tiễn, nghiên cứu bổ trợ cho giảng dạy và giảng dạy trên cơ sở nghiên cứu, tạo nên tri thức mới có tác dụng thúc đẩy tiến bộ, người thầy đóng vai trò chủ đạo, là linh hồn của quá trình nghiên cứu và giảng dạy

    Con người cần giáo dục khai phóng để có thể sử dụng quyền tự do của mình

    Tự trị về học thuật mới làm nên sức mạnh và vai trò của trường đại học

    Trong khi đó, các trường đại học ở Việt Nam, ngay từ thời thuộc Pháp, đặc biệt là sau năm 1945, đều mang dấu ấn sâu sắc của nhà nước: nhà nước lập quy hoạch các trường, thành lập trường, quản lý nhân sự trường, hoạch định mục tiêu và xây dựng chương trình đào tạo, tổ chức tuyển sinh, phê duyệt và cấp kinh phí hoạt động từ nguồn ngân sách. Kể cả sau này xuất hiện các trường dân lập, tư thục, một số trường công lập được tự chủ về tài chính, thì vẫn phải tuân thủ về mặt học thuật, nhân sự và một phần các quy định tài chính của nhà nước

    Trong bối cảnh và cơ chế đó, vấn đề tự trị đại học ở Việt Nam không hề đơn giản, vì nó vừa liên quan đến sự cải tổ tương đối khó khăn hệ thống quản lý hành chính, vừa liên quan đến vấn đề quyền lực và lợi ích cục bộ

    Do đó cải cách giáo dục đại học Việt Nam là một quá trình lâu dài và liên tục mà trọng tâm là cải cách mô hình quản trị đại học hướng tới tự trị đại học

    Về mặt điều kiện, để hình thành nền đại học tự trị cần phải có khung pháp lý để từ đó thiết kế quy tắc quản lý nhà nước và quản trị nội bộ trường đại học

    Về mặt nội dung, nói đến tự trị đại học ở Việt Nam, nhiều khi người ta chỉ nói đến vấn đề tự trị về tài chính và quản trị, trong khi tự trị về học thuật mới thật sự làm nên sức mạnh và vai trò của trường đại học. Tự do học thuật là yếu tố quyết định thành công của một trường đại học, vì chính nó tạo nên sự sáng tạo tri thức thay vì sao chép tri thức, từ đó tạo nên nguồn nhân lực ưu tú cho đất nước

    Với một dân tộc hiếu học như Việt Nam, tự trị đại học còn là một phương thức mở rộng cánh cửa học tập cho mọi người theo các tiêu chuẩn nhập học và tốt nghiệp của trường đại học đề ra

    Từ tự trị đại học, Việt Nam mới có thể tạo nên được những tên tuổi đại học khu vực và quốc tế trên nền tảng danh dự, trách nhiệm, minh bạch. Một minh chứng là Đại học Quốc gia Hà Nội do được trao quyền tự chủ mà đã đạt được những thành tựu vượt bậc, trở thành cơ sở giáo dục đại học giữ vị trí số 1 ở Việt Nam, thuộc top 200 châu Á và top 5% thế giới

    Tự trị đại học sẽ buộc các trường đại học gắn liền với thực tiễn thay vì xa rời như hiện nay, đào tạo theo nhu cầu của xã hội, của nền kinh tế, thường xuyên cập nhật tri thức mới để trở thành môi trường học thuật dẫn dắt

    Lúc đó, nhà nước sẽ được giảm bớt gánh nặng truyền thống để chuyển thành cơ quan quản lý trên các lĩnh vực về quy hoạch đào tạo, hỗ trợ chính sách và giám sát chương trình, chất lượng đào tạo

    Người thầy dần trở thành người làm thuê cho nhà quản lý giáo dục

    Xã hội công nghiệp thời kỳ hậu hiện đại đang dần phủ nhận những tư tưởng cốt lõi của thời kỳ hiện đại là tính phổ quát, lý trí, văn hóa và chủ thể, thay vào đó là đề cao sức mạnh của khoa học công nghệ và quyền lực kinh tế chính trị. Xã hội ấy đang làm thay đổi sâu sắc tính chất của các trường đại học hiện đại

    Một xã hội công nghiệp và tiêu thụ hậu hiện đại đang tạo ra những trường đại học theo mô hình doanh nghiệp. Đó là những trường đại học đặt lợi ích kinh tế lên hàng đầu từ đó biến đổi mục tiêu đào tạo: phục vụ nhu cầu nhân lực của các công ty và nhu cầu tìm việc làm có thu nhập cao của người học. Trường đại học đang trở thành “con sen” của xã hội hậu hiện đại

    Các trường đại học đang dần rời bỏ vai trò think tank của mình để đến với thị trường và phục vụ khách hàng. Doanh nghiệp nhìn trường đại học như là nơi cung cấp thợ lành nghề, người học lựa chọn trường đại học với tiêu chí việc làm và lương cao, dẫn tới nguồn nhân lực được phân bố không hợp lý: một số khu vực đem lại nhiều lợi ích thu hút nhiều sinh viên và sinh viên giỏi hơn những khu vực khác

    Trầm trọng hơn, vai trò của người thầy giảm sút cùng với sự gia tăng quyền lực của nhà quản lý giáo dục và sinh viên: người thầy không còn là trí thức và linh hồn của trường đại học mà trở thành người làm thuê cho nhà quản lý giáo dục, sinh viên trở thành khách hàng được phục vụ dưới khẩu hiệu “người học là trung tâm” – khác với mô hình đại học Humboldt “người thầy là trung tâm”

    Cùng với quá trình doanh nghiệp hóa trường đại học là sự suy giảm vị thế của các môn khoa học xã hội và nhân văn, vì chúng – dù rất cần cho xã hội nhưng dường như không trực tiếp phục vụ cho sự thịnh vượng kinh tế của quốc gia cũng như của người học và bản thân các trường, do đó các ngành đào tạo thuộc lĩnh vực này bị co hẹp dần, và các trường cũng không chú trọng đầu tư có chiều sâu nữa

    Con người cần giáo dục khai phóng

    Theo Adler (Mortimer Jerome Adler (1902-2001), nhà triết học, nhà giáo dục người Mỹ), trường đại học không chỉ đào tạo ra những con người biết làm việc một cách lành nghề, mà còn phải đào tạo ra những con người có phẩm chất đạo đức và trí tuệ phê phán, và sự phát triển các phẩm chất trí tuệ là nhiệm vụ của nền giáo dục khai phóng, cả trong và ngoài nhà trường

    Dewey (John Dewey (1859-1952), nhà triết học nhà tâm lý học, nhà cải cách giáo dục người Mỹ. Một trong những người sáng lập triết học thực dụng và tâm lý học chức năng)nhận xét: nếu chỉ đào tạo ngành nghề thôi thì sẽ chỉ tạo ra những người máy nô lệ, những bánh răng trong cỗ máy công nghiệp. Vì thế, con người cần giáo dục khai phóng để có thể sử dụng quyền tự do của mình

    Một nền đại học tự trị và khai phóng là kết quả trực tiếp từ những tư tưởng về tự do và tự trị. Tự trị đại học sẽ tạo nên những think tank góp phần mở đường cho tiến bộ xã hội. Sự khai phóng sẽ tạo nên những công dân tự do, sáng tạo và mang tinh thần trách nhiệm. Nếu chỉ chú trọng giáo dục nghề nghiệp, thì chỉ có thể đào tạo ra những người máy biết làm việc thuần thục trong một lĩnh vực vì lợi ích kinh tế, và đó chỉ có thể là một nền giáo dục bóp méo tính người

    TS. Võ Minh Tuấn
     

Chia sẻ trang này