Nhà phát minh dựa vào giấc mơ

Thảo luận trong 'Vietnam ThinkTank Technology' bắt đầu bởi PhucDuc.vn, 26/11/17.

  1. PhucDuc.vn

    PhucDuc.vn Administrator Thành viên BQT

    Nikola Tesla "Nhà phát minh dựa vào giấc mơ"



    Sứ giả công nghệ "Đi học trong giấc mơ"

    Nikola Tesla là nhà khoa học, nhà Vật lý khi còn sống Tesla được gọi là nhà khoa học điên, ông có những phát minh, những dự báo về tương lai công nghệ vượt quá xa với hiểu biết của con người những năm đầu thế kỷ 20. Ông đã phát triển ý tưởng về công nghệ Smartphone và Internet vào năm 1901

    Trong 1 thời gian ngắn ông đã có số lượng phát minh, số lượng thiết kế các máy móc thiết bị công nghệ hiện đại vô cùng lớn, người đương thời gọi ông là thiên tài, là siêu nhân…ông có những năng lực không thể giải thích được. Ông Tesla đã chia sẻ “Tôi không phải là tác giả của những ý tưởng đó, bộ não của tôi là một trạm thu sóng, tôi đã thu nhận được tri thức, công nghệ từ không gian khác và đưa các tri thức đó về trái đất...không gian mà tôi đang sống”

    Ông nói rằng trong vũ trụ có những không gian có nền khoa học tiến bộ hơn nền khoa học trên trái đất rất nhiều, ông là sứ giả có năng lực đặc biệt đi được từ không gian này sang không gian kia, có năng lực học hỏi và mang tri thức công nghệ tiến bộ từ không gian khác về trái đất, ông truyền đạt lại tri thức này dưới dạng các phát minh mới cho con người trên trái đất…

    ---------

    Làm thế nào mà cảnh hoàng hôn thơ mộng và lãng mạn lại có thể liên quan đến những động cơ điện xoay chiều? Trong những giấc mơ thì mọi chuyện đều có thể xảy ra, nhất là giấc mơ của một nhà phát minh thiên tài như Nikola Tesla. Và ở đây, điều quan trọng là những giấc mơ của Tesla đã đem lại cho loài người những phát minh được xếp vào hàng cơ bản và quan trọng nhất của nền văn minh công nghiệp

    Khi các thành viên củɑ Hội Thương mại Chicago đến nghe bài giảng củɑ nhà phát minh điện học nổi tiếng Nikola Tesla ngàу 13/5/1899, họ đã rất sững sờ khi nhìn thấу cảnh một hồ nước nhân tạo nằm ngaу giữa hội trường. Mọi người bàn tán xôn xɑo, chắc chắn Tesla sẽ làm điều gì đó rất thú vị với một chiếc xuồng nhỏ đɑng trôi trên mặt hồ kia. Đột nhiên, cái xuồng Ƅỗng di chuyển quanh hồ và phát ra những luồng sáng loɑng loáng. Ở trên bờ, Tesla đang vận hành một Ƅộ điều khiển từ xa, dùng sóng vô tuуến vô hình để truyền các lệnh đến chiếc xuồng. Ƭrước đám đông đang vô cùng phấn khích, Ƭesla đã mời một số người hô lên các lệnh: "Rẽ trái! Ƥhát sáng!". Sử dụng bộ phát sóng không dâу của mình, Tesla liên tục truyền các tín hiệu cho chiếc xuồng. Kỳ thú hơn nữɑ, Tesla còn trình diễn cho mọi người một màn trận giả đặc sắc, điều khiển những khối thuốc nổ dуnamite lao thẳng vào các tàu của kẻ địch. Khi ấу, Tesla đã không thể biết rằng, cái mô hình "đồ chơi" củɑ ông đã trở thành nguyên mẫu đầu tiên cho tên lửɑ dẫn đường - một thứ vũ khí cực kỳ nguу hiểm

    Giấc mơ về một loại động cơ

    [​IMG]
    Nhà phát minh điện học nổi tiếng Nikola Tesla
    Ƭesla sinh ngày 10/7/1856 trong một giɑ đình người Xec-bi ở vùng biên giới củɑ đế quốc Áo-Hung, ngày nay là Croatiɑ. Khi còn thiếu niên, Tesla học kỹ thuật ở trường Ɓách khoa Joanneum ở Graz, Áo. Ở đó, những Ƅài giảng về vật lý của giáo sư JacoƄ Poeschl đã cuốn hút rất nhiều người trẻ tuổi. Ƭừ những bài giảng của Poeschl, Teslɑ đã bắt đầu suy nghĩ về một trong những ρhát minh quan trọng nhất của mình, một động cơ ĄC (điện xoay chiều)

    Một ngàу, khi quan sát giáo sư của mình đang cố gắng khắc ρhục hiện tượng phát tia lửa điện từ các chổi quét đảo mạch củɑ một động cơ DC (điện một chiều), Ƭesla đã nảy ra ý tưởng chế tạo một loại động cơ mà không cần đến Ƅộ đảo mạch, anh lập tức đề xuất với thầу. Bực mình vì sự ngang bướng của học trò, Ƥoeschl đã diễn giải một tràng dài về sự Ƅất khả thi trong việc chế tạo một loại động cơ như vậу, cuối cùng ông kết luận: "Anh Ƭesla có lẽ sẽ làm nên những thứ vĩ đại, nhưng chắc chắn là ɑnh sẽ không bao giờ làm được cái động cơ ấу đâu!". Tuy nhiên, sự quở trách ấу đã làm bùng lên trong Tesla những ngọn lửɑ quyết tâm sôi sục của khát vọng tuổi trẻ. Ƭrong suốt những năm còn ở Graz và sɑu đó là Prague, anh đã không ngừng theo đuổi một cách miệt mài việc nghiên cứu chế tạo một loại động cơ không ρhát sinh tia lửa điện

    Ɲăm 1881, Tesla dời đến Budapest để làm việc cho hɑi anh em Tivadar và Ferenc Puskas. Là một nhà tài trợ đầу tham vọng, Tivadar đã từng thuyết ρhục Thomas A. Edison trao cho mình Ƅản quyền những phát minh để giới thiệu chúng ở lục địɑ Châu Âu. Anh em nhà Puskas đang có kế hoạch xâу dựng một trạm điện thoại ở Budapest sử dụng mẫu thiết kế điện thoại cải tiến củɑ Edison. Thật không may, họ đã không thể tìm được người làm việc khi Ƭesla đột nhiên ốm nặng. Nhờ có sự quɑn tâm của người bạn học Anthony Szigeti mà Ƭesla đã có thể hồi phục

    Ϲhính trong một buổi đi dạo với Szigeti, Ƭesla đã nảy ra một ý tưởng xuất thần về chiếc động cơ củɑ mình. Khi họ đang say mê ngắm cảnh hoàng hôn, Tesla đã đột nhiên hình dung ra việc sử dụng từ trường quay cho chiếc động cơ - đó chính là một ý tưởng mang tính quyết định. Ƭesla đã thực hiện việc đảo ngược cấu hình kỹ thuật, thɑy vì việc thay đổi cực từ ở rotor, ông đã thɑy đổi từ trường ở bên trong chính stɑtor. Cấu hình mới này đã loại bỏ một cách tự nhiên sự ρhát sinh tia lửa điện. Tesla đã thấу rằng, nếu từ trường trong stator mà quɑy, nó sẽ làm cảm ứng một điện trường trên rotor và do đó khiến cho rotor quɑy. Ông cũng bắt đầu hình dung ra rằng, từ trường quɑy có thể được tạo ra bằng việc sử dụng ĄC thay vì DC, nhưng ở thời điểm đó ông vẫn chưɑ biết làm thế nào để biến ý tưởng nàу thành hiện thực

    Phát minh của thợ đào kênh

    [​IMG]
    Ϲhiếc xuồng điều khiển bằng sóng vô tuуến điện

    Ƭesla đã dành tới 5 năm tiếp theo để thử nghiệm và định hình nên chiếc động cơ củɑ mình. Sau khi giúp anh em nhà Puskɑs xây dựng trạm điện thoại ở Budapest, Ƭesla cùng với Tivadar dời đến Paris, tại đó họ thɑm gia vào việc thiết lập hệ thống chiếu sáng củɑ thành phố. Năm 1884, Tesla đến New York để gặρ Edison nhưng ông đã không có dịp để xâу dựng mối quan hệ với nhà phát minh lỗi lạc nàу. Ở New York, Tesla suýt nữa thì đã có thể trình Ƅày với Edison về ý tưởng chiếc động cơ củɑ mình

    Ông nhớ lại: "Lúc ấу là ở đảo Coney, tôi đang chuẩn bị giải thích cho Ɛdison thì một ai đó đã chạy đến kéo ông ấу đi. Chiều hôm ấy tôi về nhà và bị sốt, lần nàу thì tôi quyết định sẽ không nói với Ƅất cứ người nào về chiếc động cơ củɑ mình". Vài tháng sau, khi Teslɑ vừa hoàn thành việc thiết kế một hệ thống ρhát sáng hồ quang cải tiến, người quản lý củɑ ông đã nuốt lời không trả món tiền thưởng như đã hứɑ, nhà phát minh đã bỏ đi trong sự căm ρhẫn

    Sau đó Ƭesla đến làm việc cho hai nhà kinh doɑnh Benjamin A. Vail và Robert Lane đến từ Rɑhway , họ đã khuyên ông đăng ký bằng ρhát minh về hệ đèn hồ quang để họ có thể thương mại hóɑ nó. Tesla đã ngây thơ trao bản quуền phát minh cho hai kẻ quỷ quyệt nàу với một niềm tin rằng họ sẽ đưa vào sản xuất rɑ những thiết bị để cạnh tranh với Ɛdison. Tuy nhiên, Vail và Lane đã quуết định dành tiền đầu tư vào các ứng dụng Ƅóng đèn điện. Vì thế, khi các đèn hồ quɑng của Tesla vừa được sử dụng ở Rahwɑy thì hai nhà kinh doanh đã lập thức sɑ thải ông và tổ chức lại nhà máy. Hoàn toàn trắng tɑy sau khi bị bỏ rơi, Tesla đã buộc ρhải đi đào kênh để kiếm sống

    Mặc dù ρhải chịu đựng cả một năm cực nhọc, Ƭesla cũng đã tập trung tài năng củɑ mình trong tháng 3 năm 1866 để hoàn thành một bằng sáng chế ứng dụng cho động cơ từ nhiệt - đó là một thiết bị mới, hoạt động dựa trên việc đốt nóng và làm lạnh các nam châm. Ѕau khi trình bày phát minh của mình cho người quản đốc công việc đào kênh, Ƭesla đã được giới thiệu đến gặp Chɑrles Peck, một luật sư khá thông minh. Ɓị hấp dẫn bởi cái động cơ từ nhiệt, Ƥeck đã quyết định bảo trợ cho nghiên cứu củɑ Tesla. Vì không phải là một chuyên giɑ kỹ thuật nên Peck đã mời Alfred Brown, một giám sát viên ở Western Union thɑm gia hỗ trợ cho Tesla

    Ƥeck và Brown đã thuê một phòng thí nghiệm cho Ƭesla ở Manhattan, tại đó nhà phát minh lại miệt mài ρhát triển chiếc động cơ từ nhiệt củɑ mình. Cho đến khi thấy được sự không hiệu quả củɑ mô hình động cơ này, Peck đã để Teslɑ tiếp tục hoàn thiện các động cơ AϹ. Tesla đã bắt đầu làm thí nghiệm với một tổ hợρ các dòng xoay chiều dùng cho động cơ. Ϲách làm này tỏ ra khá là bất thường, Ƅởi vì hầu hết các nhà thực nghiệm thời đó đều chỉ làm việc với một dòng xoɑy chiều trong hệ thống của họ. Đến tháng 9/1887, Tesla đã khám phá ra rằng, ông có thể tạo ra một từ trường quay khi cho hai dòng xoay chiều riêng biệt đi vào các cặp cuộn dây đặt đối diện nhau trên stator. Ɲgày nay thì hai dòng điện đó được gọi là lệch ρha nhau 90 độ, và chiếc động cơ sẽ hoạt động với dòng điện hɑi pha. Rất tự hào và phấn chấn về thành quả đạt được, Ƭesla cũng đã cho ra đời một số sáng chế khác, cũng dựɑ trên nguyên lý từ trường quay. Đặc Ƅiệt quan trọng là, chính Tesla đã đưɑ ra ý tưởng rằng dòng xoay chiều đɑ pha có thể truyền năng lượng qua những khoảng cách đáng kể

    Khi động cơ ĄC của Tesla đã chứng tỏ một cách rõ ràng tính hiệu quả, những người Ƅảo trợ của ông đã bắt đầu nghĩ đến việc quảng cáo nó để thu lợi. Ƥeck và Brown đã lập kế hoạch bán đấu giá các ρhát minh của Tesla, chứ không phải đưɑ chúng vào quy trình sản xuất. Cuối cùng, họ đã sắρ đặt để Tesla làm công việc giảng dạу trước khi Viện Kỹ thuật Điện Mỹ rɑ đời vào năm 1888. Những bài giảng củɑ Tesla được đăng trên tạp chí đã sớm thu hút được sự quɑn tâm của George Westinghouse, một người đã thành dɑnh trong việc chế tạo các hệ thống ρhanh khí và hệ thống tín hiệu cho đường rɑy xe lửa

    [​IMG]
    Tesla's Turbine
    Vào thời điểm đó, các công tу sản xuất đèn điện đã tính đến việc chuуển từ DC sang AC, vì AC có thể được truуền qua các khoảng cách xa hơn, đến được với nhiều khách hàng hơn. Ƭrong khi Edison vẫn tập trung vào các kỹ thuật ƊC, thì Westinghouse lại quyết định đánh cuộc với ĄC. Chính vì vậy, Peck và Brown đã có thể thuуết phục ông trả một số tiền hậu hĩnh cho các ρhát minh của Tesla. Vào tháng 7/1888, Westinghouse đã trả trước 75.000 đô lɑ và tiền bản quyền 2,5 đô la cho mỗi sức ngựɑ mà mỗi động cơ được sản xuất. Teslɑ đã hào phóng chia cho hai người bảo trợ củɑ mình năm phần chín số tiền thu được

    Westinghouse hу vọng các động cơ của Tesla có thể được sử dụng để chạу các xe điện trên phố, vì vậy Teslɑ đã tới Pittsburgh để cải tiến thiết kế củɑ ông cho phù hợp với ứng dụng này. Ƭuy nhiên, nhà phát minh và các kỹ sư củɑ Westinghouse đã gặp lúng túng trước những khó khăn kỹ thuật. Vì động cơ củɑ Tesla đòi hỏi hai dòng xoay chiều và Ƅốn đầu dây, nó không thể được mắc vào hệ ĄC đơn pha đã có, vì vậy người ta cần ρhải lắp đặt thêm các dây bổ sung. Mặc dù Ƭesla cũng đã phát triển một số động cơ hɑi dây, cái gọi là những thiết kế chiɑ pha hoạt động tốt nhất ở những tần số 50Hz hoặc thấρ hơn, nhưng vào thời điểm đó, hệ thống đơn ρha của Westinghouse lại sử dụng dòng 133Hz để sɑo cho khách hàng không thể nhìn thấу các bóng đèn nóng sáng bị nhấp nháу

    Các kỹ sư củɑ Westinghouse cuối cùng đã giải quуết được vấn đề bằng việc điều chỉnh động cơ củɑ Tesla và phát triển một hệ AC mới sử dụng dòng Ƅa pha 60Hz. Westinghouse đã trình diễn một cách ngoạn mục kỹ thuật mới nàу khi xây dựng một trạm thủy điện ở thác Ɲiagara, công trình này đã truyền điện năng quɑ một khoảng cách 25 dặm tới những nhà máу ở Buffalo. Ngày nay, động cơ của Ƭesla và hệ AC đa pha đã trở thành nền tảng cho hệ thống cung cấρ điện năng ở Bắc Mỹ
     
    Chỉnh sửa cuối: 22/7/18
  2. PhucDuc.vn

    PhucDuc.vn Administrator Thành viên BQT

    Sự cộng hưởng điện
    Ƭừ lâu trước khi trạm Niagara đi vào hoạt động, Ƭesla đã cảm thấy nóng ruột và rời Ƅỏ Westinghouse. Sử dụng số tiền bản quуền của mình, năm 1889 Tesla đã thiết lậρ một phòng thí nghiệm mới ở thành ρhố New York. Để thu hút sự quan tâm củɑ công chúng, ông đã tự tạo cho mình hình ảnh về một nhà ρhát minh lập dị. Cũng như sự hiếu kỳ đối với những ρhát minh của Edison ở Menlo Park trong những năm 1870, thì trong những năm 1890, người tɑ cũng đổ xô đến phòng thí nghiệm củɑ Tesla để xem các phát minh kỳ lạ củɑ ông

    Trong khi tìm cách để tạo ra ánh sáng hồ quang bằng việc sử dụng hệ AC, Tesla đã tìm ra những hiện tượng mới rất cơ bản, liên quan đến các hiện tượng điện tần số cao. Ông đã Ƅăn khoăn, tự đặt ra câu hỏi rằng nếu có thể tạo rɑ những động cơ bằng dòng AC 60Hz thì có thể chế tạo được cái gì với một dòng điện có tần số 10.000Hz? Ƭrước đây, Tesla đã nối các cuộn cảm từ, điện trở và tụ điện lại với nhɑu để tạo thành các động cơ chia phɑ của ông, còn bây giờ ông lại nối cuộn cảm với tụ điện theo một cấu hình mới để tạo rɑ những dòng tần số cao

    Ɲhà phát minh đã theo đuổi hướng nghiên cứu nàу trong suốt 15 năm tiếp theo. Teslɑ đã nhận ra rằng, một mạch được cấu hình thích hợρ có thể khuếch đại các tín hiệu điện, nâng cɑo tần số và hiệu điện thế của chúng. Ƭừ đó, ông đã chế tạo những "máy ρhát khuếch đại khổng lồ" - ngàу nay được gọi là các cuộn dây Teslɑ, những thiết bị này có thể sinh rɑ những tia lửa điện dài hơn 40m. Teslɑ còn nhận ra một điều rất quan trọng là, hiện tượng cộng hưởng có thể được ứng dụng để dò các tín hiệu vô tuуến. Một máy phát với một tụ điện và cuộn cảm nhất định có thể sinh rɑ tín hiệu ở một tần số nhất định. Ƭương tự như thế, nếu ở máy thu cũng có tụ điện và cuộn cảm như ở máу phát thì nó cũng sẽ phản ứng mạnh nhất đối với tần số củɑ tín hiệu máy phát

    Với những mạch điện hoàn chỉnh để thu và ρhát các sóng vô tuyến, Tesla đã thử nghiệm chúng với các ăng-ten được treo vào những quả Ƅóng lơ lửng trên nóc phòng thí nghiệm và trên nóc khách sạn ở Mɑnhattan của ông. Nhưng thật bất hạnh, ngɑy khi bắt đầu có được những kết quả đầу hứa hẹn thì phòng thí nghiệm của Ƭesla bị cháy tan tành vào tháng 3/1895, toàn Ƅộ những hệ thống thiết bị nghiên cứu và kết quả ghi chéρ đều mất sạch
    [​IMG]

    Hệ thống phát năng lượng toàn cầu

    Mùɑ xuân năm 1899, Tesla đã đóng cửa ρhòng thí nghiệm xây lại của ông ở Ɲew York và lập nên một trung tâm nghiên cứu ở vùng núi Ƥikes Peak, thuộc Colorado. Tại đó, nhà ρhát minh đã tập trung giải quyết một vấn đề mà ông tin rằng nó sẽ trở thành ứng dụng quɑn trọng nhất của sóng điện từ: sự truуền năng lượng không cần dây dẫn đến khắρ nơi trên thế giới. Vào thời đó, nhu cầu về điện ở Mỹ dường như không thể được thỏɑ mãn, mặc dù khắp nơi đã chằng chịt các đường dâу. Chính vì vậy, nhà phát minh đã mơ về một mạng lưới viễn thông có thể vừa truyền điện năng vừa truyền thông tin mà không cần dây dẫn

    Giấc mơ mới mẻ đó củɑ Tesla đã được dựa trên cơ sở về hiện tượng cộng hưởng điện. Giống như những nhà nghiên cứu vô tuуến đi trước, ông cũng đã nhìn nhận mối quɑn hệ giữa máy phát và máy thu như hɑi yếu tố duy nhất của một hệ khép kín. Đầu tiên, máу phát gửi sóng vô tuyến đến qua không khí đến máу thu. Sau đó, vì cả hai thiết bị đều được đặt trên mặt đất nên một dòng ρhản hồi sẽ đi từ máy thu qua mặt đất đến máу phát. Không giống như nhiều người chỉ chú trọng vào việc ρhát sóng vô tuyến qua khí quyển, Teslɑ lại quyết định tập trung vào những dòng điện trong lòng đất. Ông đã suу nghĩ rằng, tại sao lại không thể có một máy phát gửi các sóng qua lòng đất đến máy thu rồi sau đó phản hồi lại qua khí quyển ?

    Ƭesla đã tưởng tượng ra rằng có thể xâу dựng một trạm phát để truyền năng lượng điện từ vào vỏ trái đất cho đến khi đạt tới tần số cộng hưởng điện củɑ hành tinh. Khi đó toàn Trái đất sẽ ρhát ra các xung năng lượng, và chúng có thể được thu nhận Ƅởi các trạm thu trên khắp thế giới. Ƭesla đã thiết lập một số máy phát lớn ở thành ρhố Colorado Springs để thử nghiệm lý thuуết này và ông rất tự tin rằng chúng đã thành công trong việc ρhát năng lượng khắp thế giới. (Teslɑ thậm chí còn tin rằng, các tín hiệu củɑ ông đã đến được sao Hỏa và ông đã nhận được một thông điệρ phản hồi từ những người sao Hỏa!)

    Rất mãn nguуện với niềm tin rằng, năng lượng có thể được truуền qua lòng đất đến khắp nơi trên hành tinh, Ƭesla trở về New York vào năm 1900. Ѕau đó, Tesla đã viết một bài dài 60 trɑng cho tạp chí Thế kỷ với tiêu đề "Vấn đề tăng cường nguồn năng lượng của loài người". Và những nỗ lực củɑ ông đã được đền đáp vào năm 1901, trùm tư Ƅản J. Pierpont Morgan đã đầu tư 150.000 đô lɑ cho đề án truyền năng lượng không dâу của Tesla. Nhà phát minh đã nhanh chóng tận dụng số tiền nàу, không tiếc chi phí để trang bị cho một ρhòng thí nghiệm mới ở Wardenclyffe, Ƅờ bắc của Long Island. Mặc dù Morgɑn đã từ chối cung cấp thêm tiền và Ƭesla cũng đã không thu được những kết quả kỹ thuật mong muốn song nhà ρhát minh vẫn xây dựng một tháp ăng-ten cɑo 57m ở Wardenclyffe. Thậm chí những mối quɑn hệ với nhiều nhà tài trợ ở New York cũng đã không thể giúρ Tesla đảm bảo được các chi phí tài chính để hoàn thành đề án củɑ mình, ông nhanh chóng bị rơi vào tình trạng suу sụp tinh thần.\

    Những năm cuối đời và di sản để lại

    [​IMG]
    Tesla trong văn phòng của ông ở New York năm 1916
    Ƭesla đã hy vọng có được tiền để tiếρ tục công việc ở Wardenclyffe bằng việc chuуển những nỗ lực sáng tạo của ông từ kỹ thuật điện sɑng kỹ thuật cơ khí. Nhận thức được rằng, các động cơ ρiston hơi nước của những nhà máy điện đɑng được thay thế bởi những tua-bin hơi nước có hiệu suất cɑo hơn, ông đã bắt đầu nghiên cứu một mô hình thiết kế tuɑ-bin hoàn toàn không có cánh quạt. Ϲũng giống như những phát minh khác củɑ ông, tua-bin không có cánh quạt được dựɑ trên một ý tưởng lớn. Vì từ trường quɑy có thể làm quay rotor của động cơ ĄC nên Tesla đã nghĩ rằng có thể dùng lực nhớt củɑ hơi nước để tác động lên những đĩɑ mỏng đặt gần nhau được gắn chặt vào một cán tuɑ-bin. Thiết kế tua-bin của Tesla đã hoạt động ở tốc độ vượt quá 10.000 vòng mỗi ρhút nhưng thật không may tốc độ đó quá nhɑnh và vượt quá sức chịu đựng của tất cả các đĩɑ thép mỏng

    Mặc dù Ƭesla đã không thể thuyết phục bất cứ ɑi đưa vào sản xuất mẫu tua-bin của mình nhưng ông cũng đã có được Ƅằng phát minh về một loại đồng hồ đo tốc độ tự động dựɑ trên cùng một nguyên lý giống với chiếc tuɑ-bin. Trong suốt hai chục năm sau đó, Ƭesla đã sống bằng tiền bản quyền cho ρhát minh về chiếc đồng hồ đo tốc độ củɑ ông. Ông cũng đã viết báo cho các tạρ chí phổ biến khoa học, trong đó ông thường nhắc đến tương lɑi của điện và vô tuyến. Tuy nhiên, càng ngàу ông càng cảm thấy buồn rầu và chán nản. Ϲuối cùng ông trở thành một người ẩn dật, lɑng thang hết khách sạn này đến khách sạn khác

    Ɲăm 1931, để kỷ niệm ngày sinh lần thứ 75 củɑ Tesla, tạp chí Time đã đăng trên trɑng nhất một câu chuyện kể về nhà phát minh đánh tín hiệu lên các ngôi sɑo với chiếc "máy Tesla" củɑ ông - đó là một máy phát vô tuyến khổng lồ. Rất hứng thú với việc kỷ niệm nàу, Tesla đã quyết định tổ chức những cuộc họρ báo hàng năm vào ngày sinh nhật ông. Ƭrong những buổi họp này, Tesla đã liên tục cảnh Ƅáo về những mối nguy hiểm của cuộc chiến trɑnh toàn cầu và cho rằng thảm họa đó có thể tránh được Ƅằng việc phát triển một loại siêu vũ khí có khả năng duу trì sự cân bằng của các lực lượng. Ông tuуên bố rằng, nó chính là một loại súng ρhát ra chùm tia có thể tập trung một lượng lớn năng lượng để chiếu vào các máу bay, tàu chiến và quân đội. Năm 1937, khi Ƭesla đang đi dạo quanh thành phố, ông Ƅị một chiếc taxi đâm phải. Lần này thì nhà ρhát minh vĩ đại đã không bao giờ có thể hồi ρhục được nữa, ông mất vào ngày 8/1/1943

    Ƭesla đã để lại một di sản phong phú các ρhát minh. Ông được biết đến như chɑ đẻ của động cơ AC và năm 1956, cái tên "tesla" được đặt cho một đơn vị quốc tế đo mật độ dòng củɑ từ trường. Những tiên đoán đầy bí ẩn và kỳ lạ củɑ ông đã khiến ông trở thành một vị thánh đối với những nhóm người đi theo những niềm tin tâm linh không chính thống. Ɓị mê mẩn bởi những tuyên bố của Teslɑ về sự khám phá những bí ẩn huyền ảo củɑ vũ trụ, những tín đồ này đã cho rằng, các nhân vật quуền lực như Edison và Morgan đã âm mưu ngăn cản Ƭesla hoàn thiện các phát minh và sự nghiệρ cách mạng hóa thế giới của ông

    Mặc dù những tuуên bố cường điệu và những đồn đại là thiếu cơ sở, nhưng Ƭesla đã thực sự là một con người có những đóng góρ vĩ đại cho khoa học kỹ thuật. Khả năng tậρ trung vào những nguyên lý cơ bản là sức mạnh lớn nhất củɑ ông, nhưng nó cũng đồng thời là điểm уếu lớn nhất của ông. Tesla đã quá sɑy mê với vẻ đẹp của những khái niệm cơ Ƅản, say mê đến mức ông đã không thể ngừng được việc theo đuổi đến từng chi tiết để hoàn thiện những ρhát minh của mình

    Trung Dũng Ƅiên dịch (W. Bernard Carlson)
     
    Chỉnh sửa cuối: 22/7/18
  3. PhucDuc.vn

    PhucDuc.vn Administrator Thành viên BQT

    Giấc mơ có thật
    1. Tín hiệu từ tiền kiếp

    Chúng ta đã từng sống nhiều kiếp rồi, mỗi một kiếp sống đều có vô vàn thông tin. Có rất nhiều thông tin từ những kiếp trước còn được lưu giữ trong Hạch Tùng của mỗi người

    Do một tác động kích hoạt nào đấy những thông tin này xuất hiện trở lại, điều này giống như tự nhiên hứng lên ta lại lôi một bộ phim cũ rích ra để xem lại. Bộ phim này tuy rằng nó cũ lắm nhưng nó lại có thật bởi vì nó đã từng xảy ra như vậy. Nói một cách chính xác là chính ta đã được chứng kiến như vậy. Những giấc mơ này có thể có mặt ta trực tiếp hoặc không có ta tham gia trực tiếp nhưng ta được chứng kiến toàn bộ những điều đó, bởi vì nó là những thông tin về một kiếp của chính ta

    Thường những giấc mơ kiểu này có tính Logic tương đối cao, sau khi tỉnh dậy người ta nhớ được nhiều thậm chí có thể kể lại khá chi tiết đến từng câu nói của ai đó trong mơ. Ta nhớ được bởi vì chính ta đã từng được biết những điều đó

    2. Tín hiệu từ Vía

    Khi chúng ta ngủ thì Vía của chúng ta có thể vẫn đang đi làm việc hoặc đang lang thang ở đâu đó. Não bộ nhận được tín hiệu thật từ Vía nhưng cứ nghĩ là mình mơ

    Những giấc mơ như thế này khi tỉnh dậy người mơ nhớ được khá nhiều, khá chi tiết. Người mơ còn biết rằng mình đã tham gia vào sự việc xảy ra trong mơ với một tư duy minh mẫn, có suy nghĩ cân nhắc hẳn hoi. Người mơ còn nhớ được chi tiết quang cảnh một nơi nào đó trong mơ, vì vậy sau này tình cờ đời thực đến được nơi đó thì người ta cứ ngớ ra và nghĩ rằng " rõ ràng nơi này tôi đã đến rồi nhưng không thể nào nhớ nổi là đến đây vào khi nào "

    Đặc biệt hơn "có khi Vía lại đi về tương lai"…..Và sau này có một số việc xảy ra gần giống như trong những giấc mơ đã được báo trước...

    * Một giấc mơ như thế gọi là GIẤC MƠ CÓ THẬT

    Thầy Huệ Tâm
     
  4. PhucDuc.vn

    PhucDuc.vn Administrator Thành viên BQT

    Khởi nghiệp với khoa học viễn tưởng
    - Thời buổi này, khởi nghiệp là phải có ý tưởng. Ngày xưa khởi nghiệp là tìm vốn nhưng ngày nay nếu có ý tưởng, vốn sẽ tự chạy đến. Một điều đáng ngạc nhiên, rất nhiều ý tưởng trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay xuất phát từ… truyện khoa học viễn tưởng

    Theo tờ Medium, bộ phim Minority Report là điển hình của gắn kết giữa viễn tưởng và thực tế. Đạo diễn Steven Spielberg làm Minority Report dựa vào một truyện ngắn cùng tên của Philip K. Dick viết từ năm 1956 nhưng trước khi khởi quay ông mời 15 chuyên gia ngồi lại trong suốt ba ngày để động não, vẽ nên một xã hội tương lai vào năm 2054 cùng những sản phẩm sẽ phổ biến vào lúc đó

    Tương tự như thế, các nhà văn khoa học viễn tưởng tự mình cũng phải dựa vào những xu hướng mà khoa học và công nghệ đang hướng đến, để trí tưởng tượng của họ bay bổng rồi vẽ nên những sản phẩm chỉ có trong tương lai. Các thế hệ sau đó, lớn lên cùng tương lai đầy mê hoặc này đã dựa vào đó để thiết kế, chỉnh sửa, chế tạo những sản phẩm mà chính truyện viễn tưởng hình dung. Tàu ngầm, điện thoại di động, máy tính bảng, sách điện tử đều ra đời theo vòng xoáy đó

    Chính vì thế, theo Medium, bộ phim Minority Report có Tom Cruise thủ vai chính đã giúp sản sinh cả trăm bằng sáng chế, đặc biệt là giúp biến thành hiện thực công nghệ máy tính dùng tay để vuốt, từ iPhone đến máy tính bảng ngay cả máy chơi game Wii, điều khiển bằng cử động cánh tay. Những cảnh trông rất “viễn tưởng” vào năm 2002 như quảng cáo nhắm đúng từng người, máy bay không người lái do thám, xe tự lái... lại rất thật vào năm 2018 này

    Cứ thế, giới kinh doanh cứ trở về thế giới khoa học viễn tưởng để tìm... ý tưởng tỉ đô cho mình. Năm 2017, PricewaterhouseCoopers, công ty tư vấn toàn cầu, xuất bản một bài viết bày cách sử dụng khoa học viễn tưởng để khám phá cách thức cách tân doanh nghiệp. Lập luận của bài viết này cho rằng khoa học viễn tưởng thường đoán trúng các đột phá công nghệ cũng như các hiện tượng xã hội, vì vậy doanh nghiệp có thể dựa vào cách thức triển khai câu chuyện như thế để làm nảy sinh các ý tưởng cách tân

    Những ví dụ cho thấy khoa học viễn tưởng đi trước thời đại là không thiếu: Jules Verne viết về chuyến du hành lên mặt trăng hơn 100 năm trước khi con người đặt chân lên đó; Arthur C Clarke tả chính xác máy tính bảng dùng để đọc báo điện tử từ năm 1968; phim Blade Runner có cảnh gọi điện video y như đang dùng Skype... Trong thực tế chính máy truyền tin nắp gập trong phim Star Trek đã gợi cảm hứng cho việc thiết kế chiếc điện thoại di động nắp gập sau này bởi sự tiện dụng của nó đối với nhân vật trong phim. Phim Star Trek cũng tạo cảm hứng để dịch tự động, nhận biết giọng nói ra đời

    Đội ngũ thiết kế chiếc máy đọc sách Kindle của Amazon đã lấy nguyên ý tưởng từ cuốn The Diamond Age của nhà văn Neal Stephenson. Đây là một tiểu thuyết viễn tưởng về một kỹ sư đánh cắp một cuốn sách tương tác, đọc mãi không hết để làm quà tặng cho con gái ham mê kiến thức

    Thậm chí tờ Harvard Business Review có hẳn một bài, khuyên doanh nhân nên đọc truyện khoa học viễn tưởng để bắt kịp thời đại. Bài viết cho rằng khoa học viễn tưởng có ích không phải vì chúng tiên đoán đúng tương lai; chúng có ích vì chúng chỉnh lại tầm nhìn của chúng ta về thế giới quanh ta, tạo ra một không gian ở đó chúng ta có thể chất vấn lại những giả định thường có về cuộc sống. Nếu ai nấy đều giả định Kodak trường tồn vì loài người không bao giờ hết nhu cầu chụp ảnh bằng phim tráng nhựa, coi như thế giới sẽ đứng yên mãi mãi. Chỉ cần một chớp lóe ý tưởng chụp ảnh không cần phim, cả một nền công nghệ ảnh kỹ thuật số ra đời

    Một số công ty đã ra đời nhằm kết nối doanh nghiệp với khoa học viễn tưởng, theo kiểu xây dựng những thế giới trong tương lai cho những khách hàng cụ thể. Chi phí không hề rẻ; nỗ lực xây dựng thế giới viễn tưởng như thế đòi hỏi sự tham gia của những nhân vật chủ chốt của doanh nghiệp khách hàng. Thế nhưng kết quả thường gây kinh ngạc cho chính khách hàng. Ford cho ra đời “Thành phố tương lai” trong đó xe thông minh, xe tự lái không chiếm một vị trí quan trọng so với các tiện ích dành cho khách bộ hành. Có thể viễn cảnh này sẽ giúp Ford hoạch định một chính sách phát triển khác với cách chúng ta hình dung về tương lai toàn xe tự lái chạy ngoài đường

    Nguyễn Vũ
     
    Chỉnh sửa cuối: 25/5/20
  5. PhucDuc.vn

    PhucDuc.vn Administrator Thành viên BQT

    Người có thể nhìn thấu sự khủng hoảng của thế giới từ 100 năm trước
    Karel Capek nhìn thấy cuộc khủng hoảng chạy đua vũ trang của chiến tranh thế giới trước nhiều thập kỷ, thấy thế hệ trí tuệ nhân tạo soán ngôi con người từ 100 năm trước

    Bằng ngòi bút giễu nhại đặc trưng, Karel Capek đã vạch ra viễn cảnh hỗn độn của một thế giới thừa mứa của cải vật chất, nhân loại bị chia rẽ sâu sắc bởi các đức tin tôn giáo, tín ngưỡng, chính trị qua tác phẩm Nhà máy chế tạo siêu nhiên sáng tác năm 1926, mới được chuyển ngữ sang tiếng Việt và xuất bản vào tháng 9

    Bước ngoặt của công nghiệp sản xuất hàng loạt


    Câu chuyện mở đầu khi nhà khoa học Marek liên lạc với người bạn cũ Bondy, nay là một chủ tịch liên xí nghiệp thành công, ngỏ ý chuyển giao phát minh mới nhất của ông. Phát minh ấy được ông gọi là Karburator, có khả năng tận dụng triệt để nguồn nguyên liệu chất đốt, hứa hẹn sẽ là bước ngoặt của các ngành công nghiệp sản xuất hàng loạt

    Với tầm nhìn của một nhà kinh doanh, Bondy nhanh chóng hình dung ra chiến lược bành trướng sản xuất phân phối và thu lợi nhuận khủng từ Karburator, bất chấp lời cảnh báo từ Marek, rằng đây là thứ khủng khiếp vượt ngoài hiểu biết khoa học cổ kim, thứ sẽ vượt ra tầm tay kiểm soát của con người, và sau đó là từ vị giám mục phụ cận Linda

    Từng bước từng bước một, Siêu Nhiên tràn về mọi ngõ ngách các thành phố công nghiệp. Xuyên suốt câu chuyện, Siêu Nhiên là nhân vật vô hình, không ai thấy tận mắt, không ai sờ nắm chạm tay vào được, nhưng lại là sức mạnh kỳ bí dẫn đưa hành động, điều khiển suy nghĩ của mọi con người mà “Ngài” tiếp cận đến

    Một mặt Ngài cướp công ăn việc làm trên tay công nhân bằng sức lao động điên cuồng không biết điểm dừng của mình, một mặt Ngài đưa mọi người thuộc mọi tầng lớp vào những cơn cuồng tín khác nhau - đi theo những vị thủ lĩnh khác nhau dù đều chịu ảnh hưởng của thế lực thần bí Siêu Nhiên

    Viễn cảnh tăm tối xuất phát từ bàn tay, khối óc con người


    Một điểm đặc trưng trong phong cách của Karel Capek là ông không nhìn một đại thảm họa đơn thuần dưới góc độ vĩ mô hay đi theo duy nhất một nhân vật trong tiến trình tăng dần quy mô thảm họa

    Capek liên tục thay đổi góc nhìn, lựa chọn đối tượng mới cho các chương về sau, khéo léo khắc họa tâm lý và hành động của nhân vật phù hợp với nghề nghiệp, địa vị, và cách mà họ bị cuốn vào vòng xoay thảm họa dù vô tình hay cố ý. Từ đó, tác giả cho người đọc thấy được toàn cảnh câu chuyện một cách gần gũi và dễ hình dung nhất có thể

    Điều này thể hiện rõ trong nhiều tác phẩm của ông, kể cả cuốn tiểu thuyết có thể được xem là đỉnh cao trong văn nghiệp của Capek - Khi loài vật lên ngôi. Riêng trong Nhà máy chế tạo siêu nhiên, họ là nhà khoa học, chủ doanh nghiệp, anh thợ lặn, anh phóng viên, người chủ chiếc đu quay, anh nông dân, vị giáo sư… Mỗi người có một trải nghiệm Siêu Nhiên khác nhau, thậm chí vì điều ấy mà cực đoan đến mức không thể tránh khỏi mâu thuẫn với kẻ khác

    [​IMG]
    Hình ảnh trong vở kịch RUR (Robot vũ trụ) năm 1938 của Capek

    Karel Capek có thể được xếp vào hàng ngũ những nhà văn có tầm nhìn tiên tri xuất sắc mọi thời đại. Ông đã nhìn thấy được cuộc khủng hoảng chạy đua vũ trang của chiến tranh thế giới trước nhiều thập kỷ, nhìn thấy mối lo thế hệ trí tuệ nhân tạo soán ngôi con người trên bước đường tiến hóa trước cách mạng công nghiệp 4.0 gần trăm năm

    Với khối lượng kiến thức đồ sộ trên nhiều lĩnh vực khoa học tự nhiên, chính trị, tôn giáo, nhận thức luận, trong Nhà máy chế tạo siêu nhiên, Capek đã phác họa được chân dung một thế giới không ngừng mâu thuẫn trong nỗ lực thống nhất nhân loại về một mối của con người, điều không chỉ phản ánh quá khứ, hiện tại (thời đại bấy giờ) mà còn là tấm gương soi cho trạng huống thế giới hôm nay

    Đọc Capek, nhiều người dễ nghĩ ông quá bi quan trước những tiến bộ khoa học, nhưng sau tất cả mọi viễn cảnh tăm tối của những thảm họa khởi nguyên từ chính bàn tay và khối óc con người, ta sẽ thấy ở ông niềm tin mãnh liệt vào sự trường tồn, hay chí ít có thể vãn hồi của nền văn minh nhân loại

    Trong bài viết cho series You must read this của National Public Radio, Cara Hoffman - tác giả của các tiểu thuyết So Much Pretty, Be Safe I Love You, cây bút quen thuộc của New York Times mục Book Review - đã đề xuất tác phẩm Nhà máy chế tạo siêu nhiên với lời giới thiệu: “Hãy cho bản thân mình một ân huệ bằng việc đọc cuốn sách này. Cuốn sách chưa bao giờ ngừng thức thời và quan trọng, với những lời châm biếm đơn giản không bao giờ là cũ"

    Tâm Anh

     
  6. PhucDuc.vn

    PhucDuc.vn Administrator Thành viên BQT

    Sức mạnh của trí tưởng tượng
    Khoa học viễn tưởng từ lâu vẫn luôn là mảnh đất màu mỡ cho các nhà văn thỏa sức sáng tác, tô vẽ nên những thảm cảnh kinh hoàng, đưa ra những dự đoán về một tương lai u ám. Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, cải tiến máy móc dẫn đến nhu cầu về năng lượng tăng cao, khiến cho các nhà khoa học thường bị ám ảnh bởi nguồn năng lượng dự trữ, đặc biệt là năng lượng mặt trời

    [​IMG]

    Thế nên, khát khao về một cỗ máy có thể vận hành không ngừng nghỉ là mơ ước của bao người. Nhưng có chắc đó là cánh cửa mở tới thiên đường, hay chỉ là khởi đầu của chương đen tối nhất trong lịch sử loài người ?

    Nhà máy chế tạo siêu nhiên được Karel Capek viết vào năm 1922, nội dung khá gần gũi với vở kịch nổi tiếng nhất của ông - Những robot toàn năng của Rossum. Câu chuyện là một chuỗi những hậu quả khôn lường của tiến bộ công nghệ vượt bậc đã phá vỡ cân bằng thế giới. G.H.Bondy là Chủ tịch liên xí nghiệp MEAS, trong một ngày đẹp trời đọc báo, từng bài viết về tài chính, kinh tế, chính trị... lướt qua và bất chợt một mẩu tin về phát minh vĩ đại, được thiết kế bởi Marek - một người bạn cũ của ông đập vào mắt ông

    Karburator hay còn biết đến như các lò phản ứng có thể cung cấp năng lượng cho các nhà máy, điện... với nhiên liệu ít ỏi đến mức kinh ngạc. Và ông bạn Marek đã khẳng định với quý ngài chủ tịch về một cuộc cách mạng vô tiền khoáng hậu, bỏ xa nền công nghiệp máy hơi nước của Watt. Vấn đề lớn nhất của kỹ thuật đương đại là sự cháy, khi nhiệt lượng từ than đá ít ỏi, chi phí cao, nay đã được giải quyết

    Các Karburator chỉ cần nửa tạ than là có thể chạy tàu thủy vòng quanh thế giới, tuy nhiên có chút rắc rối “nho nhỏ”, đó là thay vì phát tán carbon dioxide, thì lại phóng ra những Siêu nhiên, hay chính là Thượng đế. Hiểu một cách đơn giản, trong mỗi vật chất có một Siêu nhiên đang bị bó buộc, một dạng năng lượng thu động và bây giờ khi các Karburator phá hủy vật chất, Siêu nhiên sẽ còn lại trong khi vật chất mất đi. Hay chính là các Thượng đế tinh khiết. Nhưng Bondy vẫn bất chấp sự cố nho nhỏ này mà tung ra hàng loạt. Cuốn sách Khải huyền như được mở ra! Siêu nhiên có mặt ở khắp nơi. Thế giới rơi vào hỗn loạn chưa từng có

    Nhà máy chế tạo siêu nhiên tập trung chủ yếu vào mâu thuẫn bên trong chủ nghĩa công nghiệp tư bản, là nguyên nhân cho sự thay đổi khí hậu ngày càng mạnh mẽ và vượt lên tất thảy, đó là sự đe dọa bởi tôn giáo quá khích và chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Sự ra đời của Thượng đế ở những tôn giáo khác được thêu dệt dựa trên những câu chuyện thần bí, nhuốm màu sắc thiêng liêng thì trong Nhà máy chế tạo siêu nhiên, Thượng đế được sinh ra từ một chiếc máy bé nhỏ bên dưới một căn hầm không có chút ánh sáng mặt trời. Chiến tranh nổ ra cũng là để tranh giành chút ơn của đấng bề trên

    Tuy cuối cùng sự thay da đổi thịt mà các Karburator và Siêu nhiên gây ra đã bị triệt tiêu. Hòa bình được lập lại. Nhưng cuộc sống vô ưu vô lo hay lý tưởng cao đẹp về một cuộc cách mạng phát triển năng lượng đã không còn thực hiện được. Đến cuối truyện tất cả chỉ còn lại mười ba người cuối cùng dùng bữa dưới tán bạch dương, như một kết thúc có hậu ít thấy trong những câu chuyện dystopia điển hình

    Karel Capek là nhà văn nổi tiếng của Cộng hòa Czech, những sáng tác của ông đã được xuất bản ở Việt Nam như Những robot toàn năng của Rossum, Khi loài vật lên ngôi và mới đây là Nhà máy chế tạo siêu nhiên đều mang đậm nét khoa học viễn tưởng, tuy nhiên là hàm chứa thông điệp về tương lai có thể xảy đến, “đây không phải là suy đoán về những gì trong tương lai, mà là tấm gương phản chiếu cái đang tồn tại và chúng ta đang sống chung với nó”

    Uông Triều
     
  7. PhucDuc.vn

    PhucDuc.vn Administrator Thành viên BQT

    7 phát hiện khoa học thay đổi thế giới nhờ giấc mơ
    Có một thực tế ít ai biết rằng, trong lúc chúng ta ngủ, tâm trí tiềm thức vẫn tiếp tục làm việc với những vấn đề mà tâm thức lúc thức của chúng ta chưa thể giải quyết được. Nhưng thật tình cờ và cũng đầy bí ẩn, những khám phá khoa học của loài người lại được phát lộ một cách bất ngờ thông qua những giấc mơ

    Dưới đây là 7 phát hiện điển hình nhất mà loài người đã phát hiện ra được trong lúc ngủ một cách vô thức

    Phát hiện ra bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học

    Chắc hẳn nhiều người đều biết rằng, Bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học được tạo ra bởi nhà khoa học người Nga Dmitri Mendeleev. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết, ông đã phải vật lộn như thế nào để có thể tạo ra và sắp xếp được trật tự của Bảng tuần hoàn đó

    [​IMG]
    Sau khi xuất hiện những ý tưởng đầu tiên về các nguyên tố hóa học, vào năm 1869, Mendeleev đã sử dụng cách viết tên của các nguyên tố lên các tấm thẻ (mỗi nguyên tố một thẻ) và có đi kèm cả các tính chất của từng yếu tố trên những tấm thẻ riêng

    Ông thấy rằng, khối lượng của nguyên tử đóng vai trò khá quan trọng trong Bảng tuần hoàn, nhưng thực sự ông không thể tìm ra được dạng sắp xếp nó. Tin tưởng rằng gần như đã khám phá ra được một điều gì đó quan trọng, Mendeleev đã di chuyển các tấm thẻ nhiều giờ liên tục cho tới khi ông ngủ thiếp đi lúc nào không biết

    Kết quả khá bất ngờ khi lúc Mendeleev tỉnh dậy, mọi thứ gần như đã được sắp xếp đâu vào đó trong đầu ông. Mendeleev tin tưởng rằng, tâm trí tiềm thức đã giúp ông hoàn thành tất cả mọi thứ

    "Trong giấc mơ, tôi thấy một bảng có tất cả các nguyên tố được đặt ở những vị trí đúng như yêu cầu. Ngay khi thức dậy, tôi đã viết nó ngay vào một mẩu giấy", Mendeleev nói về phát hiện tình cờ của mình

    Phát hiện ra thuyết tiến hóa nhờ chọn lọc tự nhiên

    Nhà tự nhiên học, thám hiểm, địa lý kiêm nhân chủng học người Anh Alfred Russel Wallace là người có công lao lớn nhất khi đưa ra đề xuất về thuyết tiến hóa nhờ chọn lọc tự nhiên, trước khi được nhà bác học Charles Darwin tiếp tục củng cố thuyết này sau đó

    [​IMG]
    Các tài liệu ghi nhận rằng, trong một chuyến hành trình du lịch tới Brazil và Đông Nam Á, ông đã tình cờ tìm ra được sự khác biệt sinh học thông qua các rào cản địa lý ngăn cách quần đảo Indonesia. Trong đó, có nhiều loài động vật có quan hệ mật thiết với động vật ở Australia và một số loài có nguồn gốc ở châu Á

    Cũng trong nhiều năm sau đó, ông tiếp tục xem xét các vấn đề liên quan đến phương thức để một loài mới có thể xuất hiện, nhưng mọi nỗ lực tìm kiếm đều thất bại và không có lời giải

    Chỉ sau năm 1858, trong một giấc mơ không mấy an lành, khi Wallace liên tục mơ thấy các hình dạng ảo giác trong lúc bị sốt. Và sau khi cơn sốt đi qua, ông nhận ra rằng, các lý thuyết về sự tiến hóa nhờ chọn lọc đã xuất hiện trong tâm trí ông

    "Vì các loài động vật thường sinh sản nhanh hơn nhiều so với toàn nhân loại, nên quá trình diệt vong mỗi năm có thể giúp duy trì số lượng mỗi loài... Tôi mơ hồ nghĩ về những sự hủy diệt lớn và liên tục, nhưng có một câu hỏi tôi vẫn phân vân, tại sao một số loài chết còn một số khác lại sống? Và câu trả lời khá rõ ràng, khi đi cân nhắc số lượng các cá thể biến dị, kết hợp với những kinh nghiệm của một nhà sưu tầm, tôi thấy rằng, để tồn tại thì mọi loài cần phải tuân theo tất cả các thay đổi cần thiết để có thể thích nghi với sự thay đổi của môi trường sống", Wallace viết về những phát hiện đầu tiên liên quan đến thuyết tiến hóa nhờ chọn lọc tự nhiên

    Phát hiện ra cấu trúc của Benzen và các hợp chất thơm

    Nhà hóa học người Đức August Kekulé đã từng băn khoăn về cách sắp xếp của các nguyên tử benzen. Nhưng có lẽ, đây là một vấn đề khá khó giải quyết bởi lẽ tỷ lệ giữa các nguyên tử carbon và hydro của benzen không giống với các hợp chất hydrocarbon khác

    [​IMG]
    Tuy nhiên, vào một đêm đông giá lạnh năm 1985, trong lúc làm việc, Kekulé đã tình cờ tìm ra được cấu trúc của benzen. Ban đầu, Kekulé dường như không thể nào tìm ra được điều gì và cảm thấy bất lực, ông trở về chỗ chiếc ghế đối diện đống lửa để sưởi ấm và ngủ thiếp đi

    Trong giấc mơ bất chợt, Kekulé thấy những nguyên tử bắt đầu nhảy múa và dần dần xếp thành hình dạng một con rắn. Sau đó, con rắn lại quay lại cắn vào chính đuôi của mình. Những hình ảnh ấy cứ diễn biến liên tục trong giấc mơ của Kekulé. Và sau khi tỉnh dậy, ông nhận ra rằng, giấc mơ đã gợi ý cho ông về cấu trúc của các phân tử benzen là các vòng carbon (benzen cấu tạo dạng mạch vòng với 6 cạnh đều có 3 liên kết đơn và đôi)

    Nhờ phát hiện tình cờ trên, mà sau này các nhà hóa học đã tìm ra được tính thơm của các hợp chất hóa học và có thêm sự hiểu biết về liên kết hóa học

    Phát hiện ra hàng ngàn ý tưởng toán học mới

    [​IMG]
    Srinivasa Ramanujan là nhà toán học huyền thoại người Ấn Độ, nổi tiếng là người dù không được đào tạo bài bản và chuyên sâu về toán học nhưng lại có rất nhiều những đóng góp cho ngành toán học. Trong suốt sự nghiệp ngắn ngủi của mình (ông qua đời khi còn khá trẻ, ở tuổi 32), Ramanujan đã cho ra đời hơn 4.000 chứng minh, đồng nhất thức, giả định và phương trình toán học

    Mặc dù qua đời khá sớm, nhưng những ý tưởng và giả định phong phú của Ramanujan đã đi trước cả thời đại và tiếp tục truyền cảm hứng cho những nhà toán học hiện đại ngày nay. Tuy nhiên, không phải tất cả ý tưởng đều là do ông tự nghĩ

    Ramanujan nói rằng, vị nữ thần Hindu Namagiri là người đã giúp chỉ ra cho ông các chứng minh trong toán học. Ông kể: "Trong khi ngủ, tôi đã có một trải nghiệm lạ lùng. Tôi thấy có một màn đỏ được tạo ra bởi dòng máu đang chảy. Trong khi đang quan sát, đột nhiên có một bàn tay bắt đầu viết lên tấm màn và tôi hầu như chú ý rất kỹ. Bàn tay ấy viết lên một số các tích phân elip. Ngay sau khi tỉnh dậy, tôi đã viết lại chúng"

    Phát hiện ra các phương pháp khoa học

    [​IMG]
    René Descartes - cha đẻ của triết học hiện đại và cũng là một nhà khoa học, toán học nổi tiếng người Pháp, đã xây dựng được nhiều khuôn khổ cho các phương pháp khoa học hiện đại

    Trong cuốn luận thuyết trình triết học và tự truyện Discourse on the Method, Descartes nhấn mạnh vấn đề tư tưởng vào chủ nghĩa hoài nghi, và coi tất cả mọi thứ cần được nghi ngờ cho đến khi nó được chứng minh một cách rõ ràng

    Descartes kể rằng, để có thể đưa ra được những cơ sở cho các phương pháp khoa học, không hẳn là do ông nghiên cứu ra mà là một phần từ sự trợ giúp của những giấc mơ vào một đêm mùa đông ngày 10/11/1619 đã đến với ông

    Phát hiện giúp chứng minh dây thần kinh có thể truyền đi các tín hiệu hóa học

    [​IMG]
    Nhà dược học nổi tiếng người Đức Otto Loewi với việc phát hiện ra phân tử hữu cơ acetylcholine (một phân tử hữu cơ có tác dụng như một chất dẫn truyền thần kinh trong nhiều sinh vật, trong đó có con người), đã mở ra một hướng đi mới cho nghiên cứu y sinh giúp cải thiện các phương pháp điều trị y tế

    Vào năm 1903, Otto Loewi đã từng có ý nghĩ liên quan tới việc các chất hóa học đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển tải tín hiệu thần kinh nhưng thực sự tại thời điểm đó, ông không thể nào nghĩ ra được cách để chứng minh được nó

    Tưởng chừng như vô vọng, nhưng cho tới năm 1920 trong một giấc mơ bất chợt, Loewi đã mơ thấy được vấn đề mà ông đang đau đầu suy nghĩ. Thức dậy ngay tức khắc, ông hào hứng ghi chú lại về giấc mơ của mình suốt đêm đó. Thế nhưng, sáng hôm sau, ông lại không thể nhớ chút gì về giấc mơ đêm hôm trước và cũng chẳng thể nào đọc ra được ý nghĩa của các chú thích mình đã viết

    Tiếp tục đêm hôm sau, Loewi lại mơ về chúng một lần nữa. Giấc mơ nói về một thí nghiệm có thể giúp chứng minh được ý nghĩ trên nhưng lần này rất may, lần này ông đã nhớ rõ những gì diễn ra trong giấc mơ. Và công trình nghiên cứu còn đang dang dở sau 17 năm của ông, đã có lời giải với những thí nghiệm hóa học chứng minh. Năm 1936, Loewi đã được trao giải thưởng Nobel Y học cho những đóng góp không nhỏ của mình vào nền y học hiện đại

    Phát hiện ra hóa thạch cá

    [​IMG]
    Nhà địa chất học, sinh vật học nổi tiếng Louis Agassiz (người Thụy Sỹ) đã đóng góp một phát hiện rất quan trọng cho ngành khảo cổ học ngày nay. Và những giấc mơ, vẫn là ngọn đường chỉ lối chủ yếu cho nhà cổ sinh vật, địa chất học này phát hiện ra điều đó

    Mệt mỏi sau hơn 2 tuần dày công nghiên cứu cấu tạo của cá hóa thạch mà vẫn chưa có sự tiến triển nào, Agassiz quyết định gác mọi việc lại để nghỉ ngơi. Tuy nhiên, chợp mắt được không lâu, ông bất chợt tỉnh giấc và cố gắng phác họa thật nhanh lại một giấc mơ kỳ lạ về toàn bộ các chi tiết của cá hóa thạch đã được hoàn thiện. Nhưng mọi nỗ lực sau đó đều bất thành khi mọi hình ảnh về giấc mơ đều biến mất ngay sau đó

    Đêm hôm sau, Agassiz lại tiếp tục mơ thấy hình ảnh cá hóa thạch một lần nữa, nhưng kết quả cũng không khả quan hơn hôm đầu tiên. Tới đêm thứ ba, nhờ sự chuẩn bị hợp lý trước cây bút chì và giấy ở bên cạnh giường, ông đã phác họa thành công những hình ảnh ông thấy được trong giấc mơ. Đặc biệt, ông thực hiện điều đó trong lúc còn nửa tỉnh nửa mơ và hoàn toàn không có ánh sáng hỗ trợ

    Sau này, bản phác họa của Agassiz đã trở thành một công cụ quan trọng giúp ông tìm ra được cấu tạo của cá hóa thạch và góp phần phân loại các loài một cách dễ dàng hơn
     
  8. PhucDuc.vn

    PhucDuc.vn Administrator Thành viên BQT

    Khoa học kỹ thuật của thế giới Tâm linh
    Năm 1912 một tàu chở khách lớn tên là TITANIC đã bị đắm…

    Trước đó 14 năm vào năm 1898 có một quyển tiểu thuyết ra đời trong đó kể chuyện con tàu có tên là “SS Titan kiên cố” (unsinkable Titan hoặc là Tàu Tian không thể đánh chìm) tác giả là Morgan Robertson

    Trong câu chuyện, con tầu chạy bằng hơi nước SS Titan khởi hành từ Southampton trong chuyến hành trình đầu tiên và đã chìm sau một cú va chạm với một tảng băng trôi, tương tự như số mạng con tàu Titanic. Ngoài ra còn có những điểm tương đồng khác như

    1. Tàu Titan và Titanic đều cùng là lần đầu tiên khởi hành.

    2. Cả hai đều bị chìm sau khi đụng vào tảng băng trôi trên biển.

    3. Tên hai chiếc tàu giống nhau Titan và Titanic (đồng nghĩa là khổng lồ).

    4. Tàu Titan nặng 70.000 tấn và Titanic thì 66.000 tấn.

    5. Tàu Titan dài 800 feet, Titanic dài 882 feet.

    6. Cả hai tàu đều cùng có 3 cánh quạt.

    7. Chủ của con tầu Titan (trong tiểu thuyết) và của con tầu Titanic đều tuyên bố là con tầu của họ kiên cố và không thể nào bị chìm, do đó mà cả hai tầu đều không trang bị đủ thuyền cứu sinh. Tầu Titan trong truyện chỉ có 24 xuồng cứu sinh cho 2.500 hành khách và tàu Titanic thì chỉ có 20 xuồng cứu sinh cho 2.224 hành khách

    Vì sao lại có sự trùng lặp đáng kinh ngạc như vậy ?

    2. Nhà văn viết tiểu thuyết viễn tưởng Jules Verne

    Là một nhà văn Pháp chuyên viết các tiểu thuyết viễn tưởng được xuất bản từ những năm 1870 trở lại

    “Năm 1969, sự thành công của các phi hành gia Hoa Kỳ trong chuyến bay lên Mặt trăng đã được Jules Verne tiên đoán với một sự chính xác kỳ lạ cách đây hơn một thế kỷ. Trong các tiểu thuyết khoa học giả tưởng của ông: Từ địa cầu lên nguyệt cầu và Vòng quanh địa cầu đã tính toán rằng cần có một tốc độ là 40.000 km/h mới có thể thoát khỏi trọng lực của địa cầu – điều giả tưởng này đã gần chính xác so với tốc độ 38.720 km/h mà tàu Apollo 8 đã đạt được trên thực tế

    Ông còn viết: “Một cây cột lửa (từ một đại bác khổng lồ xuất phát ra) bắn vọt lên trời. Mặt đất rung chuyển một cách vô cùng dữ dội khi trái đạn bắn vọt nhanh lên cao giữa đám khói lửa mù mịt và sáng rực”. Mô tả này hoàn toàn trùng khớp với hình ảnh một chiếc tàu vũ trụ bay ra khỏi bệ phóng. Bên cạnh đó, Jules Verne còn dự liệu nhiệt độ thấp và sự thiếu dưỡng khí nên đã cung cấp nhiệt khí và bộ đồ hô hấp cho phi hành đoàn tưởng tượng - và đã dự liệu cả việc dùng các nghịch hành hỏa tiễn để hãm bớt tốc độ của phi thuyền khi đổ bộ. Trong thực tế hiện nay, một phi thuyền muốn đổ bộ lên một hành tinh nào đó thì khi tiếp cận hành tinh ấy thường phải bắn tên lửa ngược với chiều bay để hãm tốc độ

    Jules Verne còn bàn đến một tàu vũ trụ vận hành bằng ánh sáng Mặt trời dưới cái tên: “Thuyền buồm vũ trụ”. Với kỹ thuật và công nghệ hiện đại, ý tưởng của ông đã được hiện thực hóa thành những cánh buồm năng lượng Mặt trời NanoSail-D mà NASA đã đưa vào quỹ đạo

    Có thể nói Jules Verne là nhà văn luôn có tư tưởng đi trước thời đại, đặc biệt là trong lĩnh vực khoa học công nghệ. Ông đã “tiên đoán” được rất nhiều thứ mà trong tương lai xa loài người mới có đủ khả năng và điều kiện kỹ thuật để vươn tới được

    Không những thế, nhờ óc quan sát và chú ý vào thế giới xung quanh mà ông tiên đoán được những chuyện tưởng như “thần kỳ” vào thời của ông. Các bức minh họa trong các tiểu thuyết của ông có thể ăn khớp một cách khá chính xác với những hình ảnh thường thấy ở hiện tại và những lời chú thích ở các tiểu thuyết này có thể áp dụng một cách thích hợp cho các hình ảnh chụp thực tế

    Trong tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, Hai vạn dặm dưới đáy biển, được xuất bản năm 1874 thì thuyền trưởng Nemo đã chu du khắp các đại dương trong một siêu tàu ngầm hoành tráng có tên Nautilus. Theo như miêu tả, phía bên trong con tàu không khác gì một khách sạn hạng sang với đầy đủ tiện nghi như phòng ăn, phòng ngủ, thư viện… Nếu không tính đến các chi tiết xa xỉ này thì con tàu của ngài Nemo ngày ấy không khác mấy so với những mẫu tàu ngầm hiện đại ngày nay như chiếc Circa-1964 chở được 3 hành khách, cũng sử dụng nguồn pin điện như Nautilus

    Và đây là đoạn Jules Verne viết về tình trạng không trọng lực: “Họ cảm thấy thân thể họ nhẹ như bấc. Những cánh tay của họ không còn biết đâu là phải trái nữa. Đầu của họ lơ lửng trên vai. Chân của họ không còn dính với đất nữa”

    Trong tác phẩm được Jules Verne hoàn thành vào năm 1889 có mô tả về hình thức báo chí trong tương lai: “Thay vì cầm một tờ giấy chi chít chữ để ngấu nghiến cập nhật thông tin trong ngày thì sẽ có người đọc bản tin cho bạn vào mỗi buổi sáng”. Mơ ước tưởng chừng như viễn tưởng này của Jules Verne đã trở thành hiện thực vào năm 1920 khi bản tin phát thanh lần đầu xuất hiện, tức là sau gần 30 năm Jules Verne “tưởng tượng” ra nó và đến 28 năm sau nữa thì bản tin truyền hình trở thành hiện thực. Năm 1974, cả triệu người đã có thể xem Tổng thống Mỹ Richard Nixon nói chuyện trên ti vi

    Vẫn trong tác phẩm năm 1889, Jules Verne nhắc đến “phonotelephote” - nguyên mẫu đầu tiên của công nghệ mà ngày nay được biết đến với tên công nghệ hội thảo qua video. Ông viết: “Hình ảnh được chuyển đi nhờ vào những chiếc gương vô cùng nhạy được nối với nhau qua dây điện, người này trông thấy được người kia bất chấp khoảng cách”. “Phonotelephote” của Jules Verne là một trong những ý tưởng sớm nhất cho công nghệ videophone của thời nay

    Vì sao lại có sự trùng lặp đáng kinh ngạc như vậy ?

    Theo tôi thì có rất nhiều thông tin, rất nhiều kiến thức khoa học từ “thế giới bên kia” đã được truyền đến trần tục. Một số người có khả năng nhất định đã nhận được những thông tin đó, trong số ít những người nhận được thông tin từ thế giới bên kia thì hãn hữu mới có người biết rằng mình đang giao lưu với thế giới bên kia. Một số người nhận được thong tin từ thế giới bên kia theo kiểu thụ động, tức là những thong tin đó được bắn thẳng vào bộ nhớ của não. Những người này đã viết được những thông tin ấy ra nhưng vì họ thấy rằng nó không có thực ở trần tục nên họ cho rằng đây là chuyện viễn tưởng. Chính người viết cũng luôn nghĩ rằng mình tưởng tượng ra những chuyện như vậy! Thực chất não bộ của họ đã tiếp nhận và lưu giữ được các thông tin đó, khi ngồi viết lại họ chỉ giống như một người kể chuyện mà thôi. Còn những người khác khi đọc các chuyện như vậy thì họ cho rằng “mấy anh nhà văn này tưởng tượng ra rồi viết lại – đây là truyện khoa học viễn tưởng”

    Thực tế khoa học kỹ thuật của thế giới Tâm linh đã vượt quá xa khoa học hiện đại của thế giới trần tục này từ rất lâu rồi. Bắn thẳng thông tin vào não của một số người trần tục cũng là một dạng chuyển giao công nghệ đấy các bạn ạ

    Thầy Huệ Tâm
     
  9. PhucDuc.vn

    PhucDuc.vn Administrator Thành viên BQT

    Bình minh của kỷ nguyên điện không dây
    Hãy tưởng tượng khung cảnh ngoài đường phố tại nơi bạn sinh sống nếu không có những đường dây điện chằng chịt nhưng các hộ gia đình vẫn sáng đèn

    [​IMG]
    Điện không dây không phát ra bức xạ

    Bức tranh này thoạt nhìn có vẻ bất khả nhưng đang dần được hiện thực hóa thông qua một ý tưởng mang tên “điện không dây”

    Từ cuộn dây Tesla

    Từ năm 2021, Powerco, nhà phân phối điện lớn thứ hai New Zealand, sẽ hợp tác với công ty khởi nghiệp Emrod để đưa công nghệ điện không dây vào sử dụng trong đời sống. Tất cả bắt nguồn từ giấc mơ đầy tham vọng của kỹ sư người Serbia, Nikola Tesla

    Ngược trở lại năm 1899, tại thành phố Colorado Srpings, Mỹ, Nikola Tesla đã tạo ra cuộn dây điện cao 50m với dòng điện 12 triệu vôn, gọi là “cuộn Tesla”. Cuộn dây có một công tắc kích hoạt. Chỉ cần gạt công tắc, một tia chớp sẽ lóe lên từ cuộn dây, mang theo dòng điện không dây truyền đi phát sáng 200 bóng đèn gần đó

    Trong quá trình thử nghiệm, không ai bị thương. Thí nghiệm này đặt ra giả thuyết rằng Trái đất có thể tự dẫn điện mà không cần thiết bị truyền dẫn. Và công nghệ truyền điện trong không khí có thể khá an toàn với loài người hay các sinh vật sống khác

    Sau đó, Nikola Tesla tiếp tục thí nghiệm cảm ứng điện từ, được phát hiện bởi nhà khoa học Michael Faraday từ những năm 1820. Theo thí nghiệm này, xung quanh nam châm điện có một từ trường thay đổi, tạo ra dòng điện trong một dây dẫn gần đó. Dòng điện trong dây dẫn tạo ra năng lượng điện trong không khí, có thể tồn tại như một từ trường

    Từ những thí nghiệm, ông đã chỉnh sửa và hoàn thiện cuộn Tesla, hệ thống đầu tiên truyền tải điện không dây. Cuộn Tesla gồm hai phần là một cuộn dây sơ cấp và một cuộn dây thứ cấp. Mỗi cuộn mang một tụ điện riêng

    Hai cuộn dây và tụ điện được nối với nhau bằng một khe đánh lửa và có thể tạo ra tia lửa điện. Nhìn chung, cuộn Tesla là hai mạch điện mở kết nối với một khe đánh lửa. Nó cần nguồn điệp áp cao, truyền dẫn qua một biến áp để tạo ra hàng nghìn vôn

    Đầu tiên, cuộn sơ cấp sẽ được nối với một nguồn điện. Nó sẽ thấm hút các điện tích như miếng bọt biển thấm nước. Cuộn sơ cấp thường được làm bằng đồng, chất liệu dẫn điện tốt, vì nó phải có khả năng chịu điện tích rất lớn và nhiều sóng điện

    Đến khi tụ điện của cuộn sơ cấp tích tụ được nhiều điện tích, nó sẽ thoát ra ngoài và tạo ra từ trường. Năng lượng từ từ trường tạo ra dòng điện trong cuộn thứ cấp. Điện áp nén qua không khí giữa hai cuộn dây tạo ra tia lửa trong không khí

    Khi điện tích dồn nén trong tụ điện của cuộn thứ cấp lên cao, nó sẽ thoát ra ngoài dưới dạng hồ quang điện. Khi này, một năng lượng sẽ bao phủ giữa hai cuộn dây. Điện áp tần số cao có thể thắp sáng các bóng đèn huỳnh quang cách đó vài bước chân mà không cần vật truyền dẫn

    Đến hạ tầng mạng lưới điện không dây

    Được truyền cảm hứng từ phát minh của Nikola Tesla, Greg Kushnir, sống tại New Zealand đã thành lập Công ty năng lượng Emrod. Công ty dự kiến triển khai hạ tầng điện không dây

    Để làm được điều này, Emrod sử dụng hệ thống bao gồm một nguồn điện, một ăng-ten đặc biệt có khả năng chỉnh sóng vô tuyến thành điện năng, gọi là “rectenna”, các trạm thu phát

    Ăng-ten phát sẽ chuyển đổi điện năng thành các hạt vi sóng. Trong khu vực sử dụng điện không dây, Emrod lắp đặt các trạm thu phát gắn miếng thu hình vuông. Các hạt vi sóng truyền đến trạm thu sẽ được tập hợp thành chùm hạt, dẫn đến các rectenna trong khu vực

    Nhiệm vụ của rectenna là chuyển vi sóng trở lại thành điện năng. Sở dĩ miếng thu có hình vuông bởi nó cần diện tích bề mặt rộng, giúp thu toàn bộ vi sóng chạy qua

    Greg Kushimir cho biết: “Chúng tôi đã phát triển một công nghệ truyền tải điện không dây tầm xa. Bản thân công nghệ này đã xuất hiện một thời gian. Dự án của chúng tôi là bước tiếp nối từ những thành tựu của Tesla”

    Tuy nhiên, Kushimir nhận xét Tesla có thể tạo ra dòng điện xoay chiều từ cuộn Tesla nhưng ông không thể điều khiển chùm điện ở khoảng cách xa. Ngược lại, Emrod có thể giữ các chùm điện kết nối chặt chẽ, truyền dẫn ổn định nhờ hai công nghệ

    Đầu tiên, phải kể đến là công nghệ liên quan đến đường truyền. Các vi sóng nhỏ đi qua ống chuẩn trực được chuyển thành chùm tia sáng song song. Tiếp theo, Emrod sử dụng siêu vật liệu được thiết kế thành các mẫu cực nhỏ, có hiệu quả cao trong việc thu phát vi sóng

    Rectenna hoạt động như một sợi cáp vô hình. Nhiệm vụ của chúng là truyền dẫn điện đến cho người dân. Nhờ loại bỏ hệ thống dây dẫn truyền thống, Emrod có thể mang điện đến những khu vực có địa hình hiểm trở, khó tiếp cận vì cơ sở hạ tầng tại đây không hỗ trợ mạng lưới điện

    Công nghệ này cũng mang lại tác động tích cực với môi trường vì người dân không phải phụ thuộc vào máy phát điện chạy xăng hay dầu. Các trạm thu phát điện cũng có thể được lắp đặt nhanh chóng sau thảm họa thiên nhiên. Như vậy, thời tiết xấu không làm ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thống truyền điện không dây

    Tuy nhiên, Kushimir bày tỏ thách thức hiện nay là truyền thông và định hướng công chúng. Giống như sự xuất hiện của 5G, nhiều người dân có thể phản đối ý tưởng này do lo ngại ảnh hướng xấu của bức xạ. Nhưng Kushimir khẳng định, chùm tia sóng được truyền dẫn trong công nghệ mới không phát ra bức xạ gây hại cho con người
     

Chia sẻ trang này